- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một yêu cầu tất yếu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đặc biệt là trong quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay.
Qua gần 40 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011), công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Từ những thực tiễn nêu trên đã đặt ra nhiệm vụ cho Đảng phải tiếp tục bổ sung và hoàn thiện nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để đáp ứng tốt hơn trước đòi hỏi của phát triển kinh, văn hóa, xã hội và hội nhập quốc tế.
Nhận thức của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ Đại hội VI đến nay
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã mở ra công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, bắt đầu từ đổi mới kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Sự kiện này đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội, kiến trúc hạ tầng cho sự đổi mới kiến trúc thượng tầng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Mặc dù ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, khái niệm “Nhà nước pháp quyền” chưa được đề cập đến trong các văn kiện chính thức của Đảng, nhưng những tư tưởng, nội dung của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay chịu sự chi phối bởi những kết quả cụ thể của công cuộc đổi mới đất nước từ những năm này.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội VII, năm 1991), Đảng ta xác định xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản: “Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật”. Năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”. Trong văn kiện của Hội nghị này có đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như sau: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”. Đây được coi như là điểm mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về nhà Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/1/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, có nêu năm quan điểm để xây dựng Nhà nước, trong đó có quan điểm về Nhà nước pháp quyền. Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba là, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bốn là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa. Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) tiếp tục khẳng định quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong đó đặt ra nhiệm vụ phải: “Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước;… cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính;… Cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp;… củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp”.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1997) về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh và đã đưa ra ba yêu cầu để xây dựng Nhà nước trong thời kỳ mới là: phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và khẳng định: “Ba yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Có thể thấy rằng, đến đến hội nghị này thì hệ thống quan điểm, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân từng bước được hoàn chỉnh .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) tiếp tục đánh dấu bước pháp triển mới và toàn diện hơn của Đảng trong quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền. Văn kiện Đại hội khẳng định “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”.
Đến năm 2005, Bộ chính trị Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành hai nghị quyết quan trọng trực tiếp liên quan đến các nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền, đó là: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 với hai trọng tâm là xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với quan điểm là “Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; làm rõ hơn nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân; bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động hợp hiến, hợp pháp; bắt đầu chú trọng tới vấn đề giám sát quyền lực trong hoạt động của bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra 8 đặc trưng về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, trong đó có đặc trưng (thứ 7) về nhà nước pháp quyền: “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Đại hội đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy có thể thấy, Đại hội lần này đã đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong mô hình về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ đó, khẳng định rõ hơn quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Hiến pháp năm 2013 thể chế hóa, hiến định nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đặc trưng phổ quát của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phòng ngừa và ngăn chặn sự lộng quyền, lạm quyền, vượt quá sự ủy quyền của nhân dân.
Đại hội XII của Đảng, tiếp tục bổ sung và hoàn thiện về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hoàn cảnh mới. Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và gắn với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền”. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội XII, nhiều nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII được ban hành như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 về đổi mới, tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 về xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương… Đó là những minh chứng thể hiện sự quyết tâm và kiên định của Đảng ta trong hiện thực hóa các quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XIII (2021), khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Báo cáo Chính trị và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2021 – 2030) dành dung lượng đáng kể đề cập đến nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới. Từ đó, Đại hội XIII xác định vị trí của nhiệm vụ, đến các nội dung, biện pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện tư duy mới và những bước phát triển mới về chất so với các kỳ đại hội trước. Về vị trí của nhiệm vụ, Văn kiện xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” [9]. Về nội dung, biện pháp xây dựng, cần xây dựng Nhà nước có tính chuyên nghiệp, hiện đại, coi trọng việc xây dựng Nhà nước về bản chất chính trị; xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và coi trọng khía cạnh chấp hành luật pháp; không những xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; vừa phải xây dựng các thiết chế của bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp, vừa coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy nhà nước.
Từ những nhiệm vụ đó, Đại hội XIII của Đảng đặt ra yêu cầu: “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”[9]. Đây là yêu cầu mới mà các nhiệm kỳ trước Đảng chưa đề cập, yêu cầu này thể hiện quan điểm về lộ trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới.
Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Để tiếp tục triển khai những nhiệm vụ về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đại hội XIII đã đặt ra, Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới lần đầu tiên đã chỉ ra một mô hình về Nhà nước pháp quyền mà Đảng và nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hai là: Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Ba là: Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật
Bốn là: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
Năm là: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Sáu là: Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán.
Bảy là: Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Tám là: tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.
Như vậy, những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng đã thể hiện được các tinh thần cơ bản của một nhà nước pháp quyền nói chung. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện sự khác biệt so với các nhà nước pháp quyền khác. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cho nhân dân, nhà nước là công cụ chủ yếu để Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, nhà nước pháp quyền là một giá trị của nhân loại về một mô hình nhà nước tiến bộ mà trong đó nó thừa nhận và đảm bảo quyền lực tối cao của nhân dân đối với nhà nước và xã hội. Kế thừa những thành tựu tiến bộ mà các nước trên thế giới đã đạt được trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền cũng như căn cứ vào thực tiễn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước hoàn thiện lý luận nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và vận dụng lý luận đó vào trong thực tiễn xây dựng Nhà nước. Những nhận thức mới của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa luôn được bổ sung và phát triển trước những đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình hội nhập quốc tế. Tám đặc trưng cơ bản về mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đưa ra chính là sự khái quát bản chất nhất về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã, đang và sẽ phải xây dựng. Tất nhiên, quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ không phải chỉ dừng lại ở những đặc trưng đó, mà nó sẽ tiếp tục được bổ sung và phát triển từ thực tiễn đổi mới.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM