Vai trò của ngư dân Việt Nam tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

Tạp chí Biển Việt Nam - Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để khẳng định và bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ đất nước, trong đó có ngư dân.

Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới tiếp tục khẳng định: bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế và suy cho cùng sức mạnh của nhân dân là căn bản nhất. Do vậy, bảo vệ chủ quyền biển, đảo không chỉ trông cậy vào lực lượng chuyên trách – lực lượng nòng cốt, mà điều có ý nghĩa cơ bản, lâu dài là phát huy được vai trò của ngư dân, tổ chức cho họ vươn khơi, bám biển, thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

Ngư dân được coi là lực lượng tiên phong bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đối với ngư dân, bám biển, vươn khơi là cuộc sống, là niềm tự hào được làm chủ vùng biển quê hương, nối nghề truyền thống ông cha để lại để nâng cao đời sống gia đình, góp phần phát triển kinh tế của đất nước. Bởi vậy, khi trời yên biển lặng hay dù sóng to, gió lớn họ cũng chẳng quản ngại khó khăn; coi việc vươn đến tận cùng hải phận Tổ quốc để khai thác hải sản, thực hiện quyền làm chủ biển, đảo là khát vọng, hạnh phúc của mình. Họ quan niệm rằng, với phần lớn thời gian làm ăn trên biển, thì ra khơi mới thực sự là “về quê”, tàu là nhà, biển là quê hương; ra khơi không chỉ là mưu sinh, mà còn thể hiện ý thức, trách nhiệm đối với chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Nhận thức rõ vai trò của ngư dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cũng như đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã sớm đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy vai trò của họ trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây không chỉ là quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước, mà còn là mong muốn của ngư dân, các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, lực lượng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Thực hiện tốt chủ trương, chính sách đó sẽ góp phần tăng cường sự hiện diện của ngư dân cả về số lượng và thời gian bám biển, vừa sản xuất, vừa sẵn sàng lực lượng, phương tiện tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo khi được huy động.

Tuy nhiên, việc đánh bắt xa bờ của ngư dân hiện nay chủ yếu vẫn là đơn lẻ, nhóm nhỏ, chưa hình thành các đội sản xuất có quy mô lớn để hỗ trợ nhau trên biển. Giá trị đầu ra của ngư dân chưa được bảo đảm, làm giảm hiệu quả đầu tư tín dụng, tạo tâm lý e dè của các tổ chức tín dụng khi xem xét cho ngư dân vay vốn. So với diện tích biển thì phương tiện đánh bắt hải sản của ta còn ít về số lượng, nhỏ về công suất, lại chủ yếu là tàu vỏ gỗ, nên chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu đánh bắt hải sản ở vùng biển xa và khả năng chống chọi với những tình huống phức tạp trên biển, v.v.

Những bất cập trên làm cho việc phát huy vai trò của ngư dân trong phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc chưa đạt được yêu cầu. Trong khi đó, tình hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở Biển Đông hiện nay vẫn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là thái độ hung hăng, bất hợp tác của quốc gia có tư tưởng độc chiếm Biển Đông. Cùng với đó là những khó khăn về thời tiết, bão gió, biển động, chi phí sản xuất cao, sản phẩm không tiêu thụ được, “được mùa rớt giá”…, đã và đang tác động sâu sắc đến nhận thức, tình cảm, sự gắn bó với nghề của ngư dân. Mặt khác, hoạt động khai thác của ngư dân mới chủ yếu trong các vùng biển gần bờ, chưa vươn xa được, thậm chí đã có trường hợp chuyển từ đánh bắt xa bờ về đánh bắt gần bờ.

Thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải tìm ra  những giải pháp hữu hiệu để ngư dân yên tâm bám biển, vươn khơi, phát huy vai trò trong khai thác hải sản gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc theo quan điểm kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển.

Trước hết, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành, tầng lớp nhân dân, nhất là ngư dân đối với việc khai thác hải sản phải gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn trên biển là bảo vệ không gian sinh tồn cho con cháu muôn đời sau. Tư tưởng, quan điểm đó cần được thấm sâu và biến thành hành động của mọi địa phương, mọi cấp, ngành, lực lượng và toàn dân. Các địa phương, nhất là các địa phương ven biển và lực lượng làm nhiệm vụ thực thi pháp luật trên biển, như: Kiểm ngư, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng và lực lượng Hải quân cần tận dụng điều kiện thuận lợi về thường xuyên tiếp xúc với ngư dân trong hoạt động, công tác để đẩy mạnh tuyên truyền bằng nhiều hình thức nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho ngư dân trong việc kết hợp khai thác hải sản gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nội dung tuyên truyền phải đa dạng, phong phú, sát thực tiễn và không ngừng đổi mới hình thức, phương pháp cho phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng. Trong đó, chú trọng tuyên truyền miệng đối với từng tàu thuyền; tuyên truyền bằng tờ gấp, tờ rơi, hệ thống loa,… ngay trước mỗi chuyến ngư dân ra khơi và cả khi ngư dân đang khai thác hải sản ở các vùng biển khơi của Tổ quốc. Việc chỉ đạo tuyên truyền, cần phải thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở, sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, ngành, lực lượng và các địa phương.

Thứ hai, phải có hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ, hiệu quả để phát huy vai trò của ngư dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Trong đó, cần giải quyết cả ba vấn đề: ngư nghiệp, ngư dân và ngư trường, nhất là các vấn đề búc xúc về: vốn, phương tiện sản xuất, đào tạo nghề, tổ chức sản xuất, dịch vụ hậu cần nghề cá, tiêu thụ sản phẩm, các chính sách an sinh xã hội, v.v. Giải quyết tốt các vấn đề trên sẽ là cơ sở cho mục tiêu phát triển nghề cá theo hướng bền vững; lấy hiệu quả kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của ngư dân, làm cho nghề khai thác hải sản trở thành ngành mũi nhọn, đồng thời là nguồn động lực để ngư dân bám biển, vươn khơi.

Thứ ba, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề, đảm bảo thu nhập cho ngư dân là một trong những biện pháp quan trọng để biến quyết tâm bám biển, vươn khơi của ngư dân thành hiện thực. Các bộ, ngành, địa phương ven biển cần quan tâm mở các lớp đào tạo, tập huấn cho các thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên sử dụng thành thạo các phương tiện, kỹ thuật hàng hải, nhất là công nghệ khai thác, bảo quản, chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, trang bị cho ngư dân cách phòng, chống thiên tai, phòng, tránh va chạm với tàu nước ngoài; kỹ thuật sơ cứu ban đầu khi thuyền viên xảy ra thương tật, ốm đau; nâng cao năng lực cho cán bộ khoa học, cán bộ quản lý trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ nguồn lợi hải sản. Lực lượng vũ trang với cơ sở đào tạo có sẵn của mình cũng có thể tham gia đào tạo cho ngư dân về thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên sử dụng phương tiện, kỹ thuật hàng hải. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đối với con em ngư dân vào các trường đào tạo ngành nghề thủy, hải sản chính quy, như: đại học, cao đẳng, trung cấp; khuyến khích các cơ sở chế biến và cung ứng dịch vụ thủy, hải sản dành một số chỉ tiêu nhất định nhận con em ngư dân vào học nghề và làm việc; xây dựng và nhân rộng mô hình đào tạo nghề tại cộng đồng, khuyến khích những ngư dân có kinh nghiệm tham gia đào tạo, truyền nghề cho ngư dân, lao động trẻ. Có như vậy mới đảm bảo thu nhập, nâng cao đời sống tạo động lực để ngư dân bám biển, vươn khơi, bảo vệ ngư trường truyền thống của mình.

Thứ tư, tổ chức lại sản xuất của ngư dân được coi là khâu đột phá hiện nay nhằm khắc phục tình trạng khai thác nhỏ lẻ không có điều kiện tương trợ, giúp đỡ nhau. Trên cơ sở kết quả, kinh nghiệm của việc thành lập các tổ, đội, nhóm, nghiệp đoàn nghề cá sản xuất có hiệu quả ở các địa phương để phổ biến, tuyên truyền, áp dụng, phát hiện, nghiên cứu hoàn thiện và nhân rộng các mô hình tổ chức sản xuất trên biển. Trong đó, chú trọng xây dựng các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã nghề cá, các hiệp hội nghề cá khai thác hải sản gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo ở từng địa phương. Việc làm này đòi hỏi các cấp, ngành, lực lượng trong đó có lực lượng vũ trang tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, giúp đỡ ngư dân thành lập các tổ đội sản xuất, các nghiệp đoàn nghề cá tạo sức mạnh bám biển, vươn khơi, bám ngư trường truyền thống ngay cả trước sự đe dọa, tấn công của tàu nước ngoài.

Thứ năm, phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức, các cấp, các ngành thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho ngư dân. Đó là vấn đề then chốt trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển. Bởi vì, “bờ có vững thì ngư dân mới yên tâm bám biển, vươn khơi”, sau lưng ngư dân là cả nước đồng lòng, chung sức. Các ngành, các tổ chức có chương trình hành động, việc làm thiết thực, như: “Tủ thuốc ngư dân”, “Tấm lưới nghĩa tình”, “Nghĩa tình Hoàng sa, Trường sa”, “Góp đá xây dựng Trường sa”,… cần được nhân rộng, để có nhiều chương trình như thế trong thời gian tới. Lực lượng vũ trang, nhất là Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Bộ đội Hải quân và các đơn vị quân đội khác đóng quân ở vùng ven biển có điều kiện giúp đỡ ngư dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở các làng, xã mà nhân dân sống bằng ngư nghiệp là chủ yếu, cần tích cực tham gia phát triển kinh tế – xã hội ở những địa phương này. Qua đó, hỗ trợ ngư dân cả về vật chất và tinh thần, khắc phục khó khăn, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Các địa phương ven biển, quan tâm hơn nữa đến công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí; hỗ trợ ngư dân về đất ở, nhà ở, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển đổi nghề đối với ngư dân không còn điều kiện ra khơi, v.v. Đồng thời, triển khai thực hiện hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng nông thôn mới tại các khu dân cư, làng chài ven biển, xóa bỏ những hủ tục, nâng cao đời sống của ngư dân một cách toàn diện.

Tóm lại, biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước,  trong đó lực lượng ngư dân đóng vai trò vô cùng quan trọng. Do vậy, để phát huy vai trò của ngư dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp quan tâm, tạo điều kiện để ngư dân an tâm bám biển./.

Tài liệu tham khảo:
  1. Bộ Tư lệnh Hải quân (2019), Chương trình “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”, số 4748/CTr – BTL, ngày 22/4/2019, Hải Phòng.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  4. Thanh Nhã (2022), “Gửi niềm tin để ngư dân vươn khơi, bám biển”, Trà Vinh Online, ngày 28/6/2022, Trà Vinh.
  5. Trương Tấn Sang (2019), “Bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc trong tình hình mới”, Tạp Chí Cộng sản, số 922, tháng 7/2019, tr.3-6.
Thượng tá, TS Trần Thị Nhẹn CNBM – Khoa Lý luận MLN, TTHCM – Học viện Hải quân

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM