Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng: Nhận diện thách thức từ vấn đề Biển đảo

Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, không gian mạng trở thành mặt trận trọng yếu để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch cũng lợi dụng mạng xã hội, không gian số để xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam – bao gồm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng. Đặc biệt, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng các vấn đề nhạy cảm như chủ quyền biển đảo, đặc biệt là trên Biển Đông để lan truyền luận điệu sai trái, công kích lực lượng chức năng, kích động chống đối và làm suy giảm niềm tin của Nhân dân vào Đảng. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng đòi hỏi cần phải nhận diện rõ ràng các thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm góp phần giữ vững bản chất, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo vệ chế độ, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từ đó đảm bảo ổn định chính trị – xã hội và phát triển bền vững đất nước.
Bối cảnh và thực trạng
Việt Nam hiện nay đang nằm trong nhóm các nước có số lượng người dùng Internet và mạng xã hội lớn trên thế giới. Theo thống kê của Data Reportal, tính đến đầu năm 2024, cả nước có khoảng 78,44 triệu người dùng Internet (chiếm 79,1% dân số) và 72,70 triệu người dùng mạng xã hội (tương đương 73,3% dân số). Sự phổ cập của điện thoại thông minh cùng các nền tảng mạng xã hội như Facebook, YouTube, TikTok… đã mở ra không gian trao đổi thông tin rộng khắp, tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ, nhận thức và hành vi của công chúng. Mạng xã hội mang lại tiện ích to lớn trong truyền tải thông tin, giúp các cơ quan Đảng, Nhà nước có thể lan tỏa nhanh chóng chủ trương, chính sách đến người dân, đồng thời tạo kênh tương tác hai chiều giữa Đảng với Nhân dân. Chẳng hạn, nhiều ban, ngành đã thiết lập trang thông tin điện tử, tài khoản mạng xã hội chính thức để kịp thời cung cấp thông tin chính thống. Điển hình là Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) thậm chí còn ra mắt chuyên trang “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên môi trường số, tích hợp nhiều loại hình truyền thông (văn bản, ảnh, video, infographic) để thu hút độc giả trẻ, hay như sự xuất hiện của nhiều trang thông tin chính thức trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Tiktok hay Zalo của nhiều đơn vị từ trung ương đến địa phương, đã góp phần cung cấp thông tin chính thống, khoa học đến đông đảo bộ phận người dân về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực không thể phủ nhận, mặt trái của sự bùng nổ thông tin đã và đang đặt ra những thách thức chưa từng có cho công tác tư tưởng. Không gian mạng trở thành mảnh đất màu mỡ để các luồng thông tin xấu, độc hại lan truyền nhanh chóng, khó kiểm soát. Số lượng người tham gia mạng xã hội đông đảo cùng với tính ẩn danh và tốc độ của Internet khiến các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn trong việc sàng lọc, kiểm chứng và định hướng dư luận kịp thời. Đặc biệt, giới trẻ – nhóm sử dụng Internet tích cực nhất – đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng bởi các quan điểm sai lệch, nếu thiếu bản lĩnh chính trị và kiến thức phân biệt thông tin. Bối cảnh đó đòi hỏi công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương thức hoạt động, tận dụng mặt thuận lợi của công nghệ số, đồng thời hóa giải những tác động tiêu cực mà nó mang lại.
Đặc biệt, vấn đề biển đảo đang trở thành điểm nóng để các thế lực thù địch chống phá. Các thế lực chống phá tập trung tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc xoay quanh vấn đề chủ quyền biển đảo trên Biển Đông. Một trong những luận điệu nguy hiểm nhất là vu cáo lãnh đạo Việt Nam “bán nước, bán biển đảo” cho nước ngoài. Để tạo niềm tin giả, chúng viện dẫn méo mó các dự án hợp tác kinh tế liên quan đến biển, rồi quy chụp đó là bằng chứng của sự thông đồng với ngoại bang. Các lực lượng chức năng của Việt Nam như Cảnh sát biển, Hải quân, Biên phòng, Kiểm ngư… đã và đang ngày đêm không quản ngại khó khăn, gian khổ trong đấu tranh, ngăn chặn các lực lượng nước ngoài cố tình xâm phạm chủ quyền biển, đảo của ta, đồng thời tích cực giúp đỡ, hỗ trợ và làm chỗ dựa vững chắc cho Nhân dân yên tâm vươn khơi bám biển, làm ăn phát triển kinh tế biển…. Nhưng các đối tượng xấu đã tìm mọi cách công kích, thêu dệt, cắt xén thông tin, rồi lan truyền luận điệu rằng, lực lượng chức năng yếu kém hoặc thông đồng, không bảo vệ được ngư dân và chủ quyền. Mục tiêu của các thế lực thù địch không gì khác hơn là làm suy giảm uy tín của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển – những “lá chắn” bảo vệ chủ quyền quốc gia, đồng thời gieo rắc tư tưởng chống Đảng và Nhà nước, âm mưu gây bất ổn chính trị, xã hội.
Thách thức trong công tác bảo vệ tư tưởng trên không gian mạng
Có thể thấy, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong môi trường mạng xã hội hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Thách thức đầu tiên phải kể đến là việc khó kiểm soát thông tin do mạng xã hội phát triển quá nhanh.
Như đã phân tích, số lượng người dùng và khối lượng thông tin trên Internet ở nước ta tăng trưởng bùng nổ trong thời gian ngắn. Mỗi người dùng vừa là khán giả vừa có thể trở thành “nhà báo công dân”, tự do đăng tải nội dung lên mạng xã hội mà hầu như không qua kiểm duyệt ban đầu. Điều này tạo ra tình trạng “vàng thau lẫn lộn” trên không gian mạng – thông tin chính thống và tin giả cùng tồn tại, người đọc thiếu kỹ năng dễ bị hoang mang, hiểu lầm. Tính mở và tốc độ của mạng xã hội khiến các tin đồn thất thiệt lan truyền nhanh hơn rất nhiều so với khả năng phản ứng của cơ quan chức năng. Minh chứng là khi xảy ra thiên tai, dịch bệnh, tin giả thường phát tán cực nhanh, lôi kéo nhiều người chia sẻ theo tâm lý đám đông trước khi kịp xác minh. Mặc dù Bộ Thông tin và Truyền thông (trước đây) đã vận hành Trung tâm xử lý tin giả (tại website tingia.gov.vn) như đầu mối tiếp nhận, xử lý thông tin sai lệch, phối hợp cùng công an truy tìm đối tượng vi phạm, song việc kiểm soát hàng trăm triệu người dân trên không gian mạng là thách thức không nhỏ. Đặc biệt, phần lớn các nền tảng mạng xã hội lớn (Facebook, YouTube, TikTok…) đều có máy chủ đặt ở nước ngoài, việc yêu cầu gỡ bỏ, ngăn chặn nội dung vi phạm phải thông qua nhà cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, tiềm ẩn độ trễ nhất định. Ngoài ra, một bộ phận công chúng còn có tâm lý chuộng tin “giật gân” trên mạng hơn là đọc các nguồn chính thống, làm giảm hiệu quả định hướng dư luận. Tất cả những yếu tố đó cộng hưởng khiến không gian mạng trở thành môi trường khó kiểm soát, thách thức trực tiếp đến khả năng bảo vệ trận địa tư tưởng của ta.
Thách thức tiếp theo đó là: Thủ đoạn công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo tạo nội dung giả mạo.
Nếu như trước đây các luận điệu chống phá thường dễ nhận diện do thô sơ, lạc hậu, thì nay chúng đã “nâng cấp” bằng việc tận dụng những thành tựu công nghệ mới. Các thế lực thù địch đang lợi dụng trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data) để tạo ra các dữ liệu, tài liệu giả một cách tinh vi, khiến chúng trông “có giá trị như thật”. Chẳng hạn, chúng có thể sử dụng AI để tổng hợp hình ảnh, âm thanh, tạo ra các video giả mạo phát ngôn của lãnh đạo Đảng, Nhà nước hoặc bịa đặt các “tài liệu mật” hòng làm người dân hiểu lầm về đường lối, chính sách. Nguy hiểm hơn, các dữ liệu giả này còn được số hóa, tích hợp khéo léo, khiến người tiếp nhận thiếu hiểu biết dễ lầm tưởng đó là sự thật được chứng minh. Công nghệ cũng cho phép kẻ xấu tự động hóa việc phát tán thông tin xấu độc ở quy mô lớn (qua mạng bot, tài khoản ảo), tạo hiệu ứng “nhất hô bá ứng” gây áp lực lên tâm lý xã hội. Rõ ràng, cuộc chiến trên không gian mạng không còn đơn thuần là cuộc chiến ngòi bút, mà đã trở thành cuộc chiến công nghệ cao, nơi trí tuệ nhân tạo bị lạm dụng để chống lại chúng ta. Đây là thách thức rất mới, đòi hỏi lực lượng bảo vệ tư tưởng của Đảng buộc phải theo kịp bước tiến công nghệ.
Một thách thức nữa, đó là Nhận thức hạn chế của một bộ phận người dân, đặc biệt là giới trẻ.
Sinh ra và lớn lên trong thời bình, nhiều bạn trẻ ít quan tâm đến lịch sử, chính trị; kiến thức về chủ nghĩa xã hội, về truyền thống cách mạng còn hạn chế, kỹ năng “miễn dịch” thông tin xấu chưa cao. Các thế lực thù địch hiểu rõ điều này nên luôn nhắm vào giới trẻ như đối tượng tuyên truyền chính, bởi đây là lực lượng năng động nhưng cũng dễ bị tác động nếu thiếu định hướng đúng đắn. Quả thật, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận thanh niên hiện nay (ví dụ: Phai nhạt lý tưởng, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, chạy theo lối sống thực dụng phương Tây…) phần nào bắt nguồn từ lỗ hổng trong giáo dục tư tưởng. Nếu không sớm khắc phục, nâng cao “sức đề kháng” về nhận thức cho giới trẻ, chúng ta có nguy cơ mất dần lực lượng kế cận vững vàng để bảo vệ nền tảng tư tưởng trước làn sóng công nghệ số cuộn trào.
Tóm lại, những thách thức trên đây – từ sự bùng nổ thông tin, thủ đoạn công nghệ cao của kẻ địch, đến hạn chế về nhận thức nội tại – đang đan xen, tác động lẫn nhau, tạo nên cục diện phức tạp của cuộc đấu tranh tư tưởng trên mạng.
Những thông tin bịa đặt, xuyên tạc nói trên dù phi lý nhưng khi được phát tán rộng rãi với tần suất cao đã phần nào tác động không nhỏ đến nhận thức của một bộ phận người dân, tạo dư luận xã hội tiêu cực trước các chủ trương, giải pháp đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Một số người thiếu thông tin hoặc thiếu cảnh giác có thể hoang mang, ngờ vực về đường lối đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của ta. Nếu không kịp thời nhận diện và đấu tranh, những luận điệu sai trái này có thể làm lung lay niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tính chính nghĩa của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thậm chí, chúng có thể kích thích tâm lý bất mãn, dẫn tới các hành vi cực đoan như tụ tập trái phép, gây rối trật tự công cộng dưới danh nghĩa “yêu nước”. Bài học từ vụ việc tụ tập, gây bạo loạn ở một số địa phương năm 2014 sau sự kiện giàn khoan Hải Dương-981 cho thấy, các phần tử xấu có thể lợi dụng tình hình Biển Đông để kích động bạo lực, gây thiệt hại nghiêm trọng cho kinh tế và an ninh trật tự.
Rõ ràng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh này không tách rời nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái về biển đảo không chỉ nhằm bảo vệ sự thật lịch sử, pháp lý về chủ quyền, mà còn để giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm người dân đồng thuận với đường lối của Đảng và Nhà nước trong vấn đề trọng yếu này.
Vai trò của các lực lượng chức năng trong đấu tranh phản bác
Trước các thủ đoạn tinh vi trên không gian mạng, nhiều lực lượng chức năng đã được huy động và phát huy vai trò nòng cốt trong việc bảo vệ trận địa tư tưởng. Trước hết, các cơ quan tuyên giáo của Đảng từ trung ương đến cơ sở giữ vai trò định hướng chiến lược. Ban Tuyên giáo Trung ương và các Ban Chỉ đạo 35 (được thành lập theo Nghị quyết số 35- NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị, khóa XIII) tại các cấp đã chủ động theo dõi tình hình dư luận, chỉ đạo kịp thời công tác tuyên truyền, đấu tranh phản bác luận điệu sai trái.
Hệ thống báo chí chính thống – cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước – là lực lượng xung kích trên mặt trận truyền thông. Báo chí đã liên tục đăng tải tin, bài phân tích để định hướng dư luận; vừa đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc vừa tuyên truyền nâng cao nhận thức, nhờ đó, góp phần quan trọng ổn định tình hình, không để các thế lực thù địch lợi dụng danh nghĩa bảo vệ chủ quyền để phá hoại đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thực tế cho thấy, trong những tình huống “nóng” trên Biển Đông, báo chí nước ta đã nhanh nhạy lên tiếng khẳng định chủ quyền, đồng thời bác bỏ thông tin sai lệch, giúp dư luận bình tĩnh, tránh bị lôi kéo bởi các lời kêu gọi quá khích.
Cùng với báo chí, lực lượng chuyên trách tác chiến trên không gian mạng của Quân đội và công an giữ vai trò trọng yếu. Ngay từ năm 2017, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng, đồng thời triển khai các đơn vị tác chiến mạng tại nhiều cơ quan. Đội ngũ gọi là “Lực lượng 47” (theo Chỉ thị 47/CT-CT ngày 08/01/2016 của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) với hơn 10.000 “hạt nhân” vừa hồng vừa chuyên, kiên định lập trường, giỏi công nghệ, chính là nòng cốt trong cuộc chiến dư luận trên internet. Lực lượng 47 cùng các chuyên gia đấu tranh dư luận hằng ngày tham gia mạng xã hội để kịp thời phát hiện, phản bác trực diện các quan điểm sai trái, thù địch. Tương tự, lực lượng An ninh mạng thuộc Bộ Công an cũng tích cực theo dõi, điều tra các cá nhân, tổ chức phát tán thông tin độc hại, phối hợp với nhà cung cấp dịch vụ để gỡ bỏ nội dung vi phạm và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật. Nhờ sự vào cuộc đồng bộ của các lực lượng, nhiều chiến dịch thông tin xấu độc đã bị vô hiệu hóa kịp thời; nhiều đối tượng tán phát tin bịa đặt, chống phá đã bị vạch trần và chịu các hình thức chế tài thích đáng theo luật định.
Ngoài ra, các lực lượng chuyên trách thực thi pháp luật trên biển như Cảnh sát biển, Biên phòng, Hải quân, Kiểm ngư, … đã và đang đóng góp vào cuộc đấu tranh bảo vệ sự thật. Điển hình, thông qua việc công khai thông tin về hoạt động chấp pháp trên biển, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã chứng minh bằng thực tiễn rằng, họ luôn là điểm tựa tin cậy, vững chắc cho ngư dân yên tâm vươn khơi bám biển và kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên các vùng biển Việt Nam. Những hình ảnh tàu chấp pháp Việt Nam dũng cảm đối đầu tàu nước ngoài xâm phạm, hay những câu chuyện về sự hỗ trợ, giúp đỡ ngư dân trên biển, được lan tỏa trên truyền thông, chính là lời đáp trả mạnh mẽ đối với các luận điệu bôi nhọ họ. Bên cạnh đó, các tổ chức quần chúng và địa phương cũng tham gia tích cực: Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh,
Hội Nghề cá… , đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền trên mạng xã hội, cổ vũ tinh thần yêu nước gắn với ý thức chấp hành pháp luật. Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng của các lực lượng từ trung ương đến cơ sở, một mặt trận toàn diện đã hình thành nhằm bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.
Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ tư tưởng Đảng trên không gian mạng
Để đấu tranh hiệu quả hơn trước các thách thức nêu trên, cần triển khai đồng bộ các giải pháp trước mắt và lâu dài, tập trung vào bốn trụ cột: Truyền thông, pháp lý, công nghệ và giáo dục.
Về truyền thông, cần nâng cao tính chủ động, minh bạch trong truyền thông về biển đảo. Cơ quan chức năng phải đi trước trên mặt trận thông tin, không để khoảng trống cho tin đồn. Cần tạo điều kiện để báo chí tiếp cận thông tin nhanh, nhất là các vấn đề nhạy cảm như tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, hoạt động của các lực lượng chức năng trên biển. Đồng thời, đẩy mạnh truyền thông số, tăng cường hiện diện của cơ quan nhà nước trên mạng xã hội để lan tỏa tiếng nói chính thống. Khuyến khích người có uy tín (văn nghệ sĩ, trí thức, người nổi tiếng) tham gia truyền tải thông tin tích cực, đấu tranh với luận điệu sai trái. Nội dung cần sáng tạo, gần gũi giới trẻ, kết hợp lý luận và thực tiễn sinh động (hình ảnh hoạt động của các lực lượng chấp pháp, câu chuyện ngư dân vươn khơi bám biển…). Cần có diễn đàn, tọa đàm trực tuyến để người dân trao đổi, chất vấn và được giải đáp về chính sách biển đảo, qua đó xóa bỏ “điểm mờ thông tin” mà kẻ xấu lợi dụng.
Về pháp lý, cần hoàn thiện pháp luật về quản lý không gian mạng và xử lý thông tin sai trái. Quốc hội và Chính phủ cần sớm sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về an ninh mạng, báo chí, xuất bản… nhằm bao quát đầy đủ các hành vi vi phạm. Thực thi nghiêm Luật An ninh mạng (2018) và nghị định hướng dẫn. Yêu cầu nền tảng xuyên biên giới tuân thủ luật Việt Nam, gỡ nội dung vi phạm chủ quyền, xuyên tạc lịch sử. Đồng thời, tăng cường chế tài xử phạt hành vi tung tin sai sự thật, từ xử phạt hành chính đến truy cứu hình sự nếu nghiêm trọng. Trên bình diện quốc tế, vận dụng luật pháp quốc tế như UNCLOS 1982 và các cơ chế đa phương để bác bỏ luận điệu phi pháp. Việt Nam có thể phối hợp với khu vực và quốc tế để lên án hành vi vi phạm, đấu tranh pháp lý và ngoại giao với nguồn tin xuyên tạc từ nước ngoài. Đẩy mạnh ký kết, thực thi hiệp định tương trợ tư pháp về tội phạm công nghệ cao nhằm xử lý hiệu quả các đối tượng phản động từ nước ngoài. Môi trường pháp lý chặt chẽ sẽ giúp cơ quan chức năng trấn áp hành vi sai trái và ngăn ngừa lan truyền thông tin độc hại trong cộng đồng mạng.
Về công nghệ, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong giám sát, phân tích và xử lý thông tin trên không gian mạng. Các cơ quan chức năng cần đầu tư công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn (Big Data) để phát hiện sớm thông tin bất thường liên quan đến chủ quyền, an ninh. Cần ưu tiên nghiên cứu, ứng dụng AI để Việt Nam làm chủ không gian mạng, bảo vệ an ninh tư tưởng trong tình hình mới. Đồng thời, xây dựng hệ thống lọc và cảnh báo nội dung xấu độc trên mạng xã hội, tích hợp vào các nền tảng phổ biến. Ví dụ, phát triển bộ lọc từ khóa, hình ảnh về Biển Đông, lãnh đạo Đảng, Nhà nước… để cảnh báo quản trị viên khi có nội dung nghi ngờ. Củng cố an ninh mạng quốc gia: Bảo vệ an toàn cho trang thông tin chính thống, cơ sở dữ liệu khỏi tấn công, chiếm quyền kiểm soát. Phát triển mạng xã hội trong nước an toàn, lành mạnh để người dân trao đổi tích cực về thời sự, qua đó từng bước “chiếm lĩnh” không gian không để tin sai trái có thể len lỏi. Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực và công cụ hỗ trợ cho chính các “chiến sĩ dư luận” như cung cấp phương tiện kết nối, phần mềm tác nghiệp cho Lực lượng 47 và cộng tác viên dư luận để họ có thể phản ứng nhanh, hiệu quả hơn trong môi trường mạng liên tục 24/7.
Giáo dục và nâng cao nhận thức là giải pháp đặc biệt quan trọng. Về lâu dài, giáo dục chính trị tư tưởng và hướng dẫn kỹ năng số cho các tầng lớp nhân dân chính là “vắc-xin” bền vững trước thông tin độc hại. Trước hết, cần tiếp tục đưa nội dung bảo vệ chủ quyền, bảo vệ nền tảng tư tưởng vào chương trình giáo dục và đào tạo, phù hợp với từng cấp học. Các môn học lịch sử, giáo dục quốc phòng – an ninh, giáo dục công dân… nên tích hợp kiến thức về chủ quyền biển đảo của Việt Nam (bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp lý) để thế hệ trẻ hiểu rõ sự thật, nhận diện được luận điệu xuyên tạc. Cùng với đó, tăng cường giáo dục truyền thông số: Dạy cho học sinh, sinh viên và người dân kỹ năng phân biệt thông tin chính thống với tin đồn vô căn cứ, kỹ năng kiểm chứng nguồn tin, cũng như các quy tắc ứng xử trên không gian mạng.
Các cơ quan, đoàn thể nên tổ chức nhiều buổi tập huấn, tọa đàm về phòng chống tin giả, tin xấu cho cán bộ, đảng viên và cộng đồng, đặc biệt chú trọng tới nhóm dễ bị tổn thương như người cao tuổi và thanh thiếu niên. Cùng với đó, cần phát huy vai trò của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở (như câu lạc bộ pháp luật, nhà văn hóa xã/phường) trong việc phổ biến kiến thức pháp luật về không gian mạng, giúp mọi người hiểu rõ hành vi vi phạm và hậu quả của nó. Tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng đủ mạnh về phẩm chất và trình độ, bởi họ sẽ là những “giảng viên” tích cực truyền đạt lại cho quần chúng. Cần tạo điều kiện và khuyến khích việc trao đổi học thuật, nghiên cứu khoa học về chủ đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Những cuộc thi tìm hiểu và những hội thảo khoa học chuyên sâu, như Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được tổ chức hằng năm sẽ góp phần tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đề xuất sáng kiến mới, qua đó nâng cao hiệu quả công tác này một cách căn cơ, bài bản.
Kết luận
Trong bối cảnh tình hình Biển Đông vẫn tiềm ẩn diễn biến phức tạp, công cuộc giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng càng có ý nghĩa sống còn. Các thế lực thù địch sẽ tiếp tục lợi dụng vấn đề chủ quyền biển đảo, khoét sâu vào lòng yêu nước để gieo rắc mầm mống chia rẽ giữa Đảng với Nhân dân. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác cao độ, kiên định về lập trường, kết hợp sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng. Từ việc chủ động cung cấp thông tin, đấu tranh dư luận sắc bén, tới việc hoàn thiện hành lang pháp lý, ứng dụng công nghệ hiện đại và giáo dục định hướng cho thế hệ trẻ – tất cả phải được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng. Bằng những giải pháp mạnh mẽ và khoa học nêu trên, chúng ta không chỉ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng, mà còn củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, giữ gìn sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn xã hội. Đây chính là nền tảng để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.