Quảng Bình quyết tâm mạnh giàu từ biển

Tạp chí Biển Việt Nam - Quảng Bình phải trở thành tỉnh mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Phát triển bền vững kinh tế biển là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và người dân trên địa bàn tỉnh.
Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình đã ban hành Chương trình hành động triển khai với tầm nhìn đến năm 2045.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình nhìn nhận: Thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế của tỉnh. Gắn bảo vệ môi trường biển với phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, sự cố mỗi trường, tăng cường hợp tác về biển trong nước và quốc tế.
Lấy khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản, đào tạo nguồn nhân lực về biển; kết hợp huy động các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển bền vững kinh tế biển và vùng ven biển của tỉnh.
Khu du lịch biển Sunspa ở Bảo Ninh, TP.Đồng Hới.
Mục tiêu đến năm 2030
Đưa kinh tế biển tỉnh Quảng Bình cơ bản đạt các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và xâm nhập mặn; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển ven bờ. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.
Hầu hết các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội liên quan đến biển, đảo được thực hiện theo nguyên tắc quản lý tổng hợp phù hợp với hệ sinh thái biển. Về kinh tế biển: Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 15 – 20% GRDP của tỉnh; kinh tế của 6 huyện, thị xã, thành phố ven biển ước đạt 85 – 90% GRDP của tỉnh. Các ngành kinh tế biển phát triển theo hướng bền vững, kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của các huyện, thị xã, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của tỉnh; thu nhập bình quân đầu người của các huyện, thị xã, thành phố ven biển bằng mức bình quân thu nhập đầu người của các địa phương ven biển cả nước.
Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; xây dựng được các khu bảo vệ, khu bảo tồn biển của tỉnh; phục hồi và bảo vệ tốt diện tích rừng phòng hộ ven biển và rừng ngập mặn ven sông tối thiểu bằng mức năm 2000. Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng được nâng lên. Có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển.
Tầm nhìn đến năm 2045 thì Quảng Bình trở thành tỉnh có nền kinh tế biển mạnh, phát triển bền vững, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế của tỉnh.
Chủ trương đồng bộ
Tỉnh đưa ra một số chủ trương đó là: chú trọng đầu tư hạ tầng du lịch; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm khoa học, các khu du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp vùng ven biển, như: Vũng Chùa – Đảo Yến, Nhật Lệ – Bảo Ninh, Hải Ninh – Hồng Thủy… Xây dựng, phát triển, đa dạng hoá các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển đẳng cấp quốc tế trên cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị di sản thiên nhiên, văn hoá, lịch sử đặc sắc của các vùng, miền, kết nối với các tuyến du lịch quốc tế để Quảng Bình trở thành điểm đến hấp dẫn trong nước và trên thế giới. Nghiên cứu thí điểm phát triển du lịch biển, đảo, như: Vũng Chùa – Đảo Yến, Đảo Chim, Vịnh Hòn La, phát triển dịch vụ thể thao trên biển như lướt ván, đua thuyền buồm, dù bay, mô tô nước…
Quảng Bình có nhiều bãi biển đẹp.
Chuyển từ nuôi trồng, khai thác hải sản theo phương thức truyền thống sang công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ và viễn dương phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển đi đối với thực hiện đồng bộ, có hiệu quả công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho ngư dân, thực hiện các chính sách tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ ngư dân đầu tư đóng mới tàu có công suất cao, đánh bắt xa bờ. Thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính tận diệt. Hiện đại hóa công tác quản lý nghề cá trên biển; đẩy mạnh liên kết sản xuất theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; xây dựng một số doanh nghiệp mạnh tham gia khai thác hải sản xa bờ và hợp tác khai thác viễn dương. Đầu tư nâng cấp các cảng cá, các bến cá, khu neo đậu tàu thuyền và tổ chức tốt các dịch vụ hậu cần nghề cá. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, khai thác, bảo quản, chế biến hải sản, tạo ra các sản phẩm chủ lực, có chất lượng, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Tổ chức khai thác đồng bộ, có hiệu quả các cảng biển, các cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trợ; ưu tiên xây dựng hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông cảng biển Hòn La thành cảng nước sâu trung chuyển quốc tế với đường 12, nối Lào và Đông Bắc Thái Lan, Mianma và các nước trong khu vực… Xây dựng đội tàu vận tải biển với cơ cấu hợp lý, ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường vận tải nội địa, ven biển và từng bước tham gia vào các chuỗi cung ứng vận tải hàng hải quốc tế. Nghiên cứu phát triển một số ngành kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đa dạng sinh học biển, như: dược liệu biển, nuôi trồng và chế biến rong, tảo, cỏ biển.
Bốc xếp hàng hóa ở cảng Hòn La.
Đồng thời đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản tài nguyên biển, các dạng hydrocarbon phi truyền thống; tăng cường tìm kiếm, điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng các tài nguyên khoáng sản biển vùng biển của tỉnh. Nâng cao hiệu quả khai thác các tài nguyên khoáng sản biển gắn với chế biến sâu; kết hợp hài hòa giữa khai thác, chế biến với bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái biển. Thúc đẩy đầu tư xây dựng, khai thác điện gió, điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác.
Việc phát triển đồng bộ, từng bước hình thành khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển cũng được tỉnh Quảng Bình chú ý. Theo đó tập trung xây dựng khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Phát triển Khu kinh tế biển Hòn La phải đóng vai trò là đầu tàu thu hút đầu tư, làm động lực phát triển vùng và gắn kết liên vùng. Đổi mới tư duy trong xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống đô thị ven biển có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại theo mô hình, tiêu chí tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. Đẩy nhanh xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp mới, như: Khu công nghiệp Tây Bắc Quán Hàu, Cam Liên, Khu đô thị sinh thái Quang Phú, Bảo Ninh, Hải Ninh… theo hướng tiếp cận mô hình khu công nghiệp sinh thái, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; giải quyết tốt vấn đề môi trường, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Trong đó, vùng biển và ven biển phía bắc từ Đèo Ngang đến Quảng Phúc được tỉnh chú trọng xây dựng thành trung tâm kinh tế; mà nòng cốt là Khu kinh tế Hòn La thành khu kinh tế tổng hợp với các ngành chủ chốt là công nghiệp phụ trợ, sản xuất điện năng, dịch vụ cảng biển, chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, du lịch nghỉ dưỡng… Vùng biển và ven biển trung tâm từ Thanh Trạch đến Hải Ninh: Phát triển các khu đô thị, trung tâm thương mại, khu nghỉ dưỡng du lịch biển cao cấp, nông nghiệp sinh thái, đánh bắt xa bờ, các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh tế biển. Vùng biển và ven biển phía nam từ Hải Ninh đến Hạ Cờ: Phát triển phong điện, điện mặt trời, nuôi trồng và chế biến thủy sản, phát triển kinh tế trang trại tổng hợp kết hợp với du lịch cộng đồng, sinh thái.
Hoạt động giữ gìn môi trường biển được nhiều đơn vị trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chú trọng.
Giải pháp chủ yếu
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đề ra các giải pháp như sau: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn xã hội. Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các chủ trương, giải pháp về phát triển bền vững kinh tế biển.
Nâng cao hiệu quả, đa dạng hoá các hình thức, nội dung tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển, đảo, chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển trong toàn hệ thống chính trị, trong nhân dân; khẳng định chủ trương nhất quán là duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tôn trọng luật pháp quốc tế trên biển. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức đoàn thể các cấp trong công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân giám sát và phản biện xã hội việc thực hiện Nghị quyết.
Hoàn thiện chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển Rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách về biển trên địa bàn tỉnh theo hướng phát triển bền vững, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, thống nhất, phù
hợp với chuẩn mực luật pháp và điều kiện thực tiễn của tỉnh. Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để huy động các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực và chuyển giao tri thức về biển.
Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển của tỉnh bảo đảm hiện đại, đồng bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng lực, chuyên môn cao, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, giữa Trung ương với địa phương về công tác biển, đảo. Kiện toàn cơ quan điều phối liên ngành chỉ đạo thống nhất việc thực hiện.
Ngọc Vinh - Anh Hoàng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM
Trang chủ Tin mới Share Cỡ chữ Về đầu