Trách nhiệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Vam trong việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng

Tạp chí Biển Việt Nam - Thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được Đảng và Nhà nước ta chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả, đột phá, khẳng định quyết tâm rất cao của cả hệ thống chính trị.
Đảng ta, thường xuyên và trực tiếp là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, liên tục, “không ngừng”, “không nghỉ”, thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhằm bảo vệ vững chắc đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một việc làm cần thiết, tất yếu, là một xu thế không thể đảo ngược”(1), chỉ có những người với “bàn tay sạch”, “tấm lòng sạch” mới có đủ dũng khí để dọn sạch tàn dư của những thói hư tật xấu đã len lỏi vào một bộ phận cán bộ của chúng ta (2). Với tinh thần tự phê bình, thẳng thắn, trách nhiệm, Đảng ta đã kiên quyết, kiên trì lãnh đạo công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đặc biệt, công tác này được quán triệt, triển khai và thực hiện “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”. Công tác kiểm tra, giám sát cũng được tăng cường nhằm góp phần phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm. Đó không chỉ là cuộc đấu tranh của riêng một lực lượng nào mà đòi hỏi sự đoàn kết, vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, cơ quan có trách nhiệm giám sát về công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam bao gồm: Cơ quan dân cử, đại biểu dân cử: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.

Cụ thể, Điều 7 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: Quốc hội, Ủy bản Thường vụ Quốc hội giám sát công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực do mình phụ trách; Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc phát hiện và xử lý tham nhũng; Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng; Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng tại địa phương.

Điểm d khoản 1 Điều 74 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

  1. Về khái niệm “giám sát”

Theo Từ điển Luật học, giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động thường xuyên của cơ quan, tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát và sự tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh.

Theo Từ điển Tiếng Việt: Giám sát được hiểu là sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc làm sai những điều đã quy định hoặc dùng để chỉ một chức quan đảm nhận việc theo dõi, xem xét một công việc nào đó.

Giáo sư Đào Duy Anh trong cuốn Từ điển Hán Việt đã định nghĩa: Giám sát được hiểu là hoạt động xem xét và đàn hạch.

Theo Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015: Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.

Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khái niệm “giám sát” nhưng các quan điểm trên đều đề cập tới nội dung cơ bản: giám sát là một hình thức hoạt động quan trọng, đồng thời là quyền của cơ quan nhà nước thể hiện ở việc xem xét đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật nhằm đảm bảo pháp chế hoặc sự chấp hành những quy tắc chung nào đó. Giám sát cũng có thể là sự theo dõi, phản ánh của nhân dân đối với cơ quan có thẩm quyền trong các lĩnh vực khác nhau.

Theo định nghĩa này, giám sát xã hội khác với giám sát nhà nước ở những điểm sau:

Một là, giám sát xã hội không mang tính quyền lực nhà nước, khác với giám sát nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Hoạt động này được thực hiện theo kế hoạch như một nghĩa vụ của chủ thể giám sát với đối tượng bị giám sát.

Hai là, giám sát xã hội thể hiện tính khách quan, độc lập, công khai. Do các chủ thể giám sát đứng ở bên ngoài đối tượng bị giám sát, nên việc giám sát được thực hiện một cách toàn diện, sự đánh giá, nhận xét, kết luận đảm bảo tính khách quan trong việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước.

Ba là, giám sát xã hội có tính linh hoạt, quy tụ nhiều chủ thể thực hiện giám sát, trong đó có các chuyên gia, các đại biểu tiêu biểu cho các tầng lớp nhân dân, có trình độ chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… được thể hiện dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng và linh hoạt.

Bốn là, giám sát xã hội bổ trợ cho hoạt động giám sát nhà nước. Trong chế độ chính trị nhất nguyên, giám sát xã hội không nhằm mục đích kiềm chế hay đối trọng với hoạt động giám sát nhà nước, mà ngược lại nó bổ trợ cho hoạt động giám sát của nhà nước đạt hiệu quả.

Như vậy, xét về tính chất, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính xã hội, đại diện, bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh.

  1. Trách nhiệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận

Theo Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Với tư cách là một tổ chức liên minh chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được cấu thành từ những thành viên mà không có hội viên. Thành viên của Mặt trận bao gồm: 1) tổ chức chính trị – Đảng Cộng sản Việt Nam; 2) tổ chức chính trị- xã hội – các đoàn thể nhân dân, đoàn thể chính trị- xã hội như: Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, các tổ chức xã hội khác và các cá nhân tiêu biểu của giai cấp và các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tán thành, thực hiện Điều lệ và Chương trình của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tự nguyện xin gia nhập và được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trực tiếp công nhận.

Điều 9 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta chỉ ra rằng, trong tất cả các giai đoạn triển khai từ khâu phòng ngừa, phát hiện đến xử lý tham nhũng đều có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng đang được Quốc hội xem xét và dự kiến thông qua tại kỳ họp cuối năm nay, đều dành riêng một điều ở phần chung có tính nguyên tắc để quy định vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tích cực tham gia, động viên nhân dân, thành viên của mình tham gia vào việc phòng ngừa, phát hiện tham nhũng và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý tham nhũng, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp có trách nhiệm tích cực tham gia vào việc phòng ngừa phát hiện tham nhũng theo quy định của pháp luật (Điều 7 dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng). Như vậy, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có các quyền và trách nhiệm sau:

Một là, tuyên truyền, vận động nhân dân, thành viên của mình tham gia vào việc phòng ngừa, phát hiện tham nhũng.

Hai là, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý tham nhũng.

Ba là, giám sát và phản biện xã hội việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Để hình thành cơ chế, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số: 75/2015/QH13 ngày 09 tháng 06 năm 2015 đã thể chế hóa điều 9 của Hiến pháp về giám sát và phản biện xã hội thành 2 chương: Chương V hoạt động giám sát và Chương VI hoạt động phản biện.

Cụ thể, Điểu 23 quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí với các nội dung sau đây: a) Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí; xác minh vụ việc tham nhũng, lãng phí; xử lý người có hành vi tham nhũng, lãng phí; c) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khen thưởng đối với người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí. Và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời yêu cầu, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật.

Về hoạt động giám sát, Điều 25 quy định tính chất, mục đích và nguyên tắc giám sát là: a) Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật; b) Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; c) Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ, sự tham gia của Nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không chồng chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.

Về đối tượng, nội dung, phạm vi giám sát, Điều 26 quy định: a) Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức; b) Nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; c) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì giám sát đối với đối tượng, nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc quy định của pháp luật, các tổ chức chính trị – xã hội chủ trì giám sát đối với đối tượng, nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, quyền và trách nhiệm của tổ chức mình. Các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thực hiện giám sát đối với đối tượng, nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, quyền và trách nhiệm của tổ chức mình.

Về hình thức giám sát, Điều 27 quy định: a) Nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; b) Tổ chức đoàn giám sát; c) Thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; d) Tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; e) Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ phối hợp với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành nghị quyết liên tịch quy định chi tiết Điều này (3).

Như vậy, so với trước đây, nhận thức về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có những đổi mới:

Thứ nhất, đây không phải là hình thức “hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước”(Quy định tại Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999) vì Mặt trận không làm thay những công việc của bộ máy nhà nước. Ngược lại, chính hoạt động của bộ máy nhà nước trong việc thực thi quyền lực, thực hiện chính sách pháp luật mới chính là đối tượng giám sát của Mặt trận (các nước phương Tây gọi đây là hình thức giám sát dân chủ).

Thứ hai, giám sát của Mặt trận là giám sát mang tính xã hội vì nó không mang tính quyền lực, không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát. Tuy nhiên, điều này phần nào không phát huy được đúng bản chất và đầy đủ ý nghĩa của việc giám sát và vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, không thấy hết được vai trò, vị trí của Mặt trận trong hệ thống chính trị. Theo Quyết định số 218- QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị, “giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính nhân dân”. Như vậy, cần phải xem xét và nhìn nhận lại “tính nhân dân” trong quy định tại Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.

Có thể thấy, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là loại hình giám sát xã hội đặc thù mà trong đó quan hệ giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có mối quan hệ quyền lực ràng buộc với nhau, cùng chung mục đích. Nhà nước là công cụ quyền lực của nhân dân; Mặt trận là tổ chức chính trị- xã hội; Nhân dân là nguồn gốc quyền lực, là chỗ dựa của Nhà nước. Do đó, giám sát này lại mang tính quyền lực chính trị (hay tính nhân dân), vừa là để bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền lực mà nhân dân ủy quyền nhưng đồng thời vừa phải đảm bảo tránh lạm quyền, tha hóa quyền lực.

Thứ ba, giám sát xã hội quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 là phương tiện để Mặt trận các cấp thực hiện quyền và trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ. Còn phản biện xã hội là phương tiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thực hiện quyền và trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước trước khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành chính thức các văn bản tác động đến đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Cả hai phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước trước và sau của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có tác dụng phòng chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Vì thế phát huy đầy đủ trách nhiệm của các chủ thể không phải Nhà nước, nhưng lại là những chủ thể quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của quyền lực nhà nước, sẽ là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” (Điều 2). Như thế, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc không mang tính hình thức, có thể đi tới cùng. Nói tính chất giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát phản biện xã hội là để chỉ chủ thể giám sát là toàn thể nhân dân tham gia trong các tổ chức rộng lớn của mình nhưng đều phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Vì chủ thể giám sát và phản biện mang tính xã hội rộng lớn, nên sức mạnh của giám sát phản biện xã hội cũng mang tính xã hội rộng lớn, do đó, mặc dù không có các chế tài cụ thể nhưng sức mạnh của giám sát, phản biện xã hội lại rất sâu rộng. Kết quả sự giám sát của Mặt trận là những kiến nghị không giống như của các tổ chức xã hội khác, đó là sự đồng tình hay lên án của dư luận xã hội, đôi khi còn có sức nặng hơn là một chế tài pháp lý cụ thể, bởi đó là sự tập hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân đến cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết, xử lý. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận giám sát và xem xét tiếp thu giải trình, trả lời trong thời hạn theo quy định của pháp luật.

Vì thế đổi mới tư duy, nhận thức đầy đủ và đúng đắn về giám sát phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là giải pháp trước tiên để nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội trong công tác phòng, chống tham nhũng.

  1. Trong việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật chủ yếu thông qua các hoạt động thực tiễn của Mặt trận trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông qua các cuộc vận động, Mặt trận Tổ quốc phát hiện những chính sách, pháp luật có phù hợp với thực tiễn hay không. Trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc đã yêu cầu chấm dứt những hoạt động sai trái, đề nghị với Nhà nước xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội.

Theo quy định của Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội ban hành kèm theo (Quyết định số 217- QĐ/TW) và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, hằng năm, căn cứ vào tình hình thực tiễn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội có trách nhiệm xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát báo cáo cấp ủy và chính quyền cùng cấp trước khi triển khai. Khi cần thiết tổ chức giám sát ngoài kế hoạch. Chương trình, kế hoạch giám sát được thống nhất với cơ quan quản lý nhà nước liên quan để hỗ trợ triển khai, bảo đảm giám sát thiết thực, đúng thực tế, có tác động tốt đối với đời sống chính trị, xã hội và nhân dân.

Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thời gian qua chỉ ra rằng, các kiến nghị sau giám sát, phản biện xã hội không được cơ quan, cá nhân là đối tượng chịu sự giám sát phản hồi nên không biết kết quả giám sát, phản biện như thế nào. Vì thế, Luật cũng cần phải bổ sung các quy định về trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát, phản biện xã hội trong việc phản hồi việc tiếp thu và thực hiện các kiến nghị sau giám sát, phản biện. Đồng thời, quy định trách nhiệm theo dõi đến cùng của chủ thể có quyền giám sát đối với việc tiếp thu và thực hiện các kiến nghị của mình.

Nội dung của các cuộc giám sát của Mặt trận Tổ quốc chủ yếu tập trung vào những vấn đề trực tiếp gắn với cuộc sống của nhân dân, gắn với các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân mà trọng tâm là hướng vào những vấn đề nhân dân quan tâm, bức xúc đang cản trở công cuộc xây dựng ở địa phương.

Theo đó, nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc trong phòng, chống tham nhũng là việc tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của các cấp chính quyền và của những cá nhân có trách nhiệm trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Phòng, chống tham nhũng là một cuộc đấu tranh nhằm phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Do đó, giám sát của Mặt trận Tổ quốc cũng phải lựa chọn những vấn đề trọng tâm, bức xúc mà các hành vi tiêu cực tham nhũng xâm hại trực tiếp đến lợi ích chính đáng của nhân dân nhằm tạo ra những tác động dây chuyền đến việc thực hiện toàn bộ chủ trương, chính sách, pháp luật.

Do đó, cần tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong giám sát, phản biện xã hội việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng:

Trong công tác phòng ngừa tham nhũng: Cần phối hợp với các cơ quan tổ chức như: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước xây dựng báo cáo phản biện xã hội về công tác phòng, chống tham nhũng hằng năm. Những báo cáo này phải được xây dựng một cách khách quan, khoa học, sâu sắc, thể hiện được ý nguyện của nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Báo cáo phản biện về công tác phòng, chống tham nhũng cần được Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đọc công khai trước kỳ họp cuối năm của Quốc hội, sau khi Quốc hội nghe báo cáo về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên truyền, giáo dục nhân dân và các thành viên tổ chức mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng. Đồng thời, từ thực tiễn nắm bắt ý nguyện của nhân dân, đề xuất các kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa và phát hiện xử lý tham nhũng. Phối hợp với chính quyền cơ sở xây dựng các quy tắc văn hóa, hương ước làng xã có nội dung liêm chính và ý thức phòng chống tham nhũng ở cơ sở.

Trong công tác phát hiện tham nhũng: Cần phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Thanh tra nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước … trong việc phát hiện, xác minh các vụ việc tham nhũng bằng việc động viên nhân dân cung cấp thông tin, tạo điều kiện để người dân tham gia tích cực vào việc phản ánh, tố cáo hành vi tham nhũng. Thông qua hoạt động giám sát xã hội các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, nếu phát hiện những dấu hiệu tham nhũng thì kịp thời yêu cầu, kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phối hợp với các cơ quan này tiến hành điều tra xác minh làm rõ và báo cáo với nhân dân về kết quả của việc xử lý các vụ việc tham nhũng đó.

Trong công tác xử lý tham nhũng: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần xem xét và phản ánh tâm lý, nguyện vọng của nhân dân với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xem xét, xử lý các hành vi tham nhũng, tạo ra sự đồng thuận của xã hội trong việc xử lý các vụ việc tham nhũng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vụ việc tham nhũng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phối hợp với các cơ quan truyền thông, các cơ quan đã xử lý hành vi tham nhũng tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nhằm lên án, phẫn nộ các hành vi tham nhũng, đồng thời thông qua đó giáo dục phòng ngừa tham nhũng trong các tầng lớp nhân dân.

Trong giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và giải quyết các vụ việc tham nhũng: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành các cuộc giám sát hoặc phối hợp với các cơ quan dân cử: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Mặt trận chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xử lý tham nhũng, giám sát việc giải quyết một số vụ việc, vụ án đã xử lý mà dư luận xã hội không đồng thuận để khắc phục những tiêu cực đảm bảo công lý và công bằng trong việc xử lý vụ việc và vụ án tham nhũng. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan nhà nước định kỳ kiến nghị với Đảng, Quốc hội và Chính phủ hoàn thiện chính sách, pháp luật và các giải pháp trong công tác phòng, chống tham nhũng thông qua các cuộc giám sát xã hội.

Với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là phương thức quan trọng để Mặt trận đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân và cũng là phương thức kiểm soát quyền lực của Nhân dân từ bên ngoài để thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, góp phần tạo đồng thuận xã hội và gắn kết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đòi hỏi sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội cần tiếp tục khẳng định vai trò giám sát để góp phần nâng cao hiệu quả, phát huy tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vì sự ổn định, phát triển của đất nước, vì tương lai của dân tộc.


(1), (2). Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.13, 542.

(3). Xem https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Luat-Mat-tran-to-quoc-Viet-Nam-2015-282378.aspx

ThS. Hoàng Liên Hương Học viện Báo chí và Tuyên truyền

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM
Trang chủ Tin mới Share Cỡ chữ Về đầu