Vai trò của các mô hình bảo tồn tại chỗ trong công tác bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thuỷ
Rừng ngập mặn và vai trò của chúng đối với hệ sinh thái
Vườn quốc gia (VQG) Xuân Thuỷ có tổng diện tích 15.110 ha, thuộc các xã Giao Minh, Giao Hòa, Giao Phúc tỉnh Ninh Bình và được chia thành hai vùng: vùng đệm (8.000 ha) và vùng lõi (7.110,08 ha). Với những giá trị nổi bật về đa dạng sinh học và văn hóa mở đất của cư dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, tháng 12/2004, UNESCO đã công nhận VQG Xuân Thuỷ là vùng lõi có tầm quan trọng đặc biệt của Khu Dự trữ sinh quyển thế giới đất ngập nước liên tỉnh ven biển châu thổ sông Hồng.
Rừng ngập mặn ở Vườn quốc gia Xuân Thủy đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sống cho các loài thủy sản, cũng như góp phần điều tiết khí hậu. Các khu rừng ngập mặn giúp duy trì ổn định tài nguyên đất đai, ngăn ngừa xói mòn bờ biển, điều tiết nước mưa, và hấp thụ một lượng lớn khí carbon, góp phần vào việc chống biến đổi khí hậu.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn còn là môi trường sống lý tưởng cho nhiều loài động vật, bao gồm các loài chim di cư. Các loài chim di cư từ khu vực Bắc Á và Đông Bắc Á đến Xuân Thủy vào mùa đông, tạo nên một trong những khu vực quan trọng nhất trong mạng lưới các khu bảo tồn chim quốc tế.
Bên cạnh đó, rừng ngập mặn ở Vườn quốc gia Xuân Thủy còn có mục tiêu phục vụ cho nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và phát triển du lịch sinh thái.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và giáo dục môi trường, phát triển du lịch sinh thái, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tạo công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương.
Bãi triều lầy có rừng ngập mặn tại VQG Xuân Thuỷ tạo nên sự đa dạng sinh học, là điểm dừng chân lý tưởng của các loài chim di cư
Đa dạng thành phần loài sinh vật tại VQG Xuân Thuỷ
Đa dạng thực vật và thảm thực vật
Kết quả điều tra cho thấy VQG Xuân Thuỷ có 202 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 145 chi, 62 họ, trong đó có khoảng 20 loài thích nghi với điều kiện ngập nước. Các quần xã thực vật chủ yếu tại VQG Xuân Thuỷ bao gồm: Quần xã rừng trồng Phi lao; Quần xã ưu thế cỏ ngạn; Quần xã ưu thế rau muống biển; Quần xã ưu thế muối biển; Quần xã các loài thực vật trên bờ đê, bờ đầm; Quần xã lác đước; Quần xã rừng ngập mặn. Trong đó, thực vật nổi có 112 loài của 6 ngành tảo lớn, trong đó tảo Silic là ngành chiếm ưu thế. Đây là nguồn thức ăn sơ cấp, quyết định tới năng suất của thủy vực. Các loài rong thuộc 02 ngành rong đỏ và rong xanh có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là loài rong câu chỉ vàng
Đa dạng động vật dưới nước và trên cạn
VQG Xuân Thuỷ có hệ động vật nổi phong phú, ghi nhận được 110 loài, xếp trong 4 ngành động vật không xương sống trong đó phân loài giáp xác chân chèo chiếm ưu thế (67,8%). Động vật không xương sống cỡ lớn ở đáy có 386 loài trong đó lớp giáp xác lớn có thành phần loài phong phú nhất (151 loài). VQG Xuân Thuỷ là nơi cứ trú của 161 loài cá trong đó chiếm ưu thế là bộ cá Vược và bộ cá Trình. Nhiều loài cá có giá trị kinh tế cao như: cá Vược, Sủ Song, Bớp, Nhệch…
Động vật ở trên cạn tại VQG Xuân Thuỷ tạo nên một quần thể vô cùng phong phú với 427 loài côn trùng, ghi nhận 37 loài bó sát, ếch nhái, gồm 13 loài ếch nhái và 24 loài bò sát. Với khoảng 17 loài thú, chủ yếu là các loài thuộc các bộ ăn sâu bọ và bộ gặm nhấm như: chuột chù, dơi lá mũi, cầy hương, rái cá thường. Trong bảo tàng của VQGXT hiện tại còn lưu giữ bộ xương cá heo họ Delphinidae nhưng chưa xác định được tên loài.
Đặc biệt, vườn quốc gia Xuân Thủy là một trong những điểm dừng chân quan trọng trong hành trình di cư của các loài chim. Hiện nay, đã ghi nhận được 222 loài, thuộc 42 họ, 12 bộ, trong đó chiếm ưu thế là các loài thuộc bộ Hạc, bộ Ngỗng, bộ Rẽ và bộ Sẻ. Hàng năm từ tháng 10, 11 đến tháng 3,4 năm sau, hàng chục ngàn cá thể chim di cư từ phương Bắc đã chọn VQGXT làm nơi dừng chân kiếm ăn, tích lũy năng lượng. Ghi nhận năm 1988 là trên 20.000 cá thể, năm 1996 là trên 33.000 cá thể.
Các loài chim như cò thìa, hạc cánh trắng, và diệc xám đã được ghi nhận tại đây, đóng vai trò không thể thiếu trong việc duy trì cân bằng sinh thái khu vực.
Các loài chim này cần môi trường rừng ngập mặn và các bãi bùn ven biển để kiếm ăn, sinh sản và nghỉ ngơi trong suốt hành trình di cư của mình. Mất mát hoặc suy thoái của các hệ sinh thái này sẽ đe dọa sự tồn tại của những loài chim quý hiếm này, đồng thời ảnh hưởng đến toàn bộ hệ sinh thái đất ngập nước.
Mô hình bảo tồn tại chỗ: Tiềm năng và hiệu quả
Nhiều mô hình sinh kế thay thế bền vững đã được VQG triển khai như: trồng nấm, nuôi ong, nuôi giun quế, du lịch sinh thái… Mô hình cộng đồng quản lý rừng ngập mặn: cộng đồng tham gia bảo vệ rừng ngập mặn và khai thác bền vững thủy sản dưới tán rừng.
Mô hình nuôi ong mật dưới tán rừng sú, vẹt tại VQG Xuân Thuỷ
Các mô hình bảo tồn tại chỗ trong việc bảo vệ rừng ngập mặn đã và đang được triển khai tại Vườn quốc gia Xuân Thủy. Đây là một hình thức bảo tồn gắn liền với việc bảo vệ và duy trì môi trường sống tự nhiên của các loài động, thực vật, đồng thời đảm bảo sự tham gia của cộng đồng địa phương trong quá trình bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Quản lý khu bảo tồn hiệu quả
Một trong những mô hình bảo tồn hiệu quả tại VQG Xuân Thủy là việc phân vùng theo 7 kiểu hệ sinh thái đất ngập nước và quản lý các khu vực rừng ngập mặn để giảm thiểu tác động từ hoạt động khai thác tài nguyên. Việc tạo ra các khu vực cấm khai thác, khu vực bảo tồn chim và các khu vực nuôi trồng thủy sản hợp lý giúp duy trì sự ổn định của hệ sinh thái, đồng thời bảo vệ môi trường sống cho các loài động, thực vật, đặc biệt là chim di cư.
Tăng cường giám sát và nghiên cứu khoa học
Bảo tồn tại chỗ không thể thiếu sự giám sát chặt chẽ và nghiên cứu khoa học. Các dự án nghiên cứu về tình trạng sức khỏe của hệ sinh thái rừng ngập mặn, số lượng và hành vi của các loài chim di cư, giúp đưa ra các giải pháp quản lý và bảo tồn phù hợp. Các mô hình giám sát hiện đại như sử dụng camera giám sát, vệ tinh, và theo dõi từ xa giúp theo dõi tình trạng bảo vệ môi trường và động vật một cách hiệu quả. Cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo liên quan đến bảo tồn và phát triển bền vững, khuyến khích tự đào tạo.
Tổ chức các chương trình giáo dục cộng đồng
Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương về giá trị của rừng ngập mặn và các loài chim di cư là yếu tố then chốt trong mô hình bảo tồn tại chỗ. Các chương trình giáo dục cộng đồng giúp người dân hiểu được lợi ích lâu dài của việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động bảo vệ, như việc chống săn bắt chim trái phép, thu gom rác thải, hay hạn chế khai thác rừng ngập mặn. Mỗi năm VQG Xuân Thuỷ thực hiện các hội nghị giao ban vùng đệm, 40 hội nghị tuyên truyền nâng cao nhận thức, 05 cuộc đào tạo/tập huấn với sự tham gia của 3,000 lượt người. Biên tập, thiết kế hàng loạt các ấn phẩm truyền thông
Hợp tác quốc tế và liên kết các khu bảo tồn
Với tầm quan trọng toàn cầu của các loài chim di cư và rừng ngập mặn, việc hợp tác quốc tế và liên kết các khu bảo tồn trong và ngoài nước là rất cần thiết. Các chương trình bảo tồn quốc tế như Chương trình Di cư của Chim nước (CMS) đã giúp kết nối các khu bảo tồn như Xuân Thủy với các khu vực bảo tồn khác trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Hằng năm, cử các cán bộ tham gia các khóa đào tạo/tập huấn quốc tế để nâng cao năng lực chuyên môn.
Những thách thức và giải pháp
Dù các mô hình bảo tồn tại chỗ tại Vườn quốc gia Xuân Thủy đã mang lại những kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều thách thức. Những áp lực tác động tới đa dạng sinh học của VQG Xuân Thuỷ đã được nhận diện, chủ yếu là từ hoạt động của con người ở các xã vùng đệm như: Khai thác quá mức và trái phép tài nguyên sinh vật; thiếu các quy hoạch cụ thể khi cải tạo, xây dựng các đầm nuôi tôm quảng canh ở vùng lõi, phát triển nuôi ngao với mật độ nuôi cao ở phân khu phục hồi sinh thái phía đuôi Cồn Lu; dân số vùng đệm tăng nhanh; những bất cập trong quản lý bảo tồn đa dạng sinh học ở VQG Xuân Thuỷ; ô nhiễm hữu cơ do nguồn thải từ khu vực nuôi tôm ở Cồn Vạng và Cồn Lu.
Quá trình đô thị hóa, sự gia tăng của các hoạt động khai thác tài nguyên, và biến đổi khí hậu đều gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến khu bảo tồn.
Để duy trì và nâng cao hiệu quả của các mô hình bảo tồn, cần có sự hỗ trợ từ các chính sách bảo vệ môi trường mạnh mẽ hơn từ phía chính quyền, đồng thời cần phát triển các giải pháp sáng tạo, linh hoạt để giải quyết các vấn đề môi trường. Việc áp dụng công nghệ mới, tăng cường hợp tác quốc tế, và khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động bảo tồn sẽ là chìa khóa để bảo vệ và phát huy giá trị của Vườn quốc gia Xuân Thủy trong tương lai.
Kết luận
Các mô hình bảo tồn tại chỗ đã chứng minh được vai trò quan trọng trong việc bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn tại Vườn quốc gia Xuân Thủy - một trong những ưu tiên hàng đầu để phát triển bền vững vùng ven biển Việt Nam. Bằng cách quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, kết hợp nghiên cứu khoa học, giám sát môi trường, và tăng cường giáo dục cộng đồng, Việt Nam có thể duy trì và phát triển những giá trị thiên nhiên quý báu này, không chỉ vì lợi ích của thế hệ hiện tại mà còn vì sự thịnh vượng bền vững của tương lai.