Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, định hướng chiến lược phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

1. Mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Kỷ nguyên mới, theo cách hiểu thông thường, là thời điểm mở đầu gắn với một sự kiện trọng đại có ảnh hưởng lớn đến các giai đoạn phát triển tiếp theo của một lĩnh vực, cộng đồng v.v…, trong phạm vi quốc gia, nhân loại.

Ở nước ta, từ khi Đảng ra đời, mở ra một thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh, thực hiện thành công vẻ vang hai kỷ nguyên. Kỷ nguyên thứ nhất – Kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội (1930 – 1975). Đảng lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi vẻ vang, những chiến thắng vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược của thực dân, đế quốc (1946 – 1975) và những thành tựu ban đầu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 – 1975).  Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tập trung thực hiện hai nội dung lớn của kỷ nguyên đầu tiên của cách mạng: giành, giữ độc lập, tự do cho Tổ quốc và chuẩn bị tiền đề ban đầu cho Kỷ nguyên thứ hai – Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới, phát triển (1975 – 2025). Mùa Xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng, cả nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội đã tạo ra thế và lực mới, vận hội mới để năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới và qua gần 40 năm đổi mới, đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao. Mục tiêu và những nội dung lớn của Kỷ nguyên thứ hai về cơ bản đã hoàn thành, cho phép đất nước ta bước vào Kỷ nguyên thứ ba – kỷ nguyên mới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc phồn vinh, hạnh phúc.

 Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là sự phát triển tiếp nối hợp quy luật hai kỷ nguyên trước, phản ánh quy luật cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội và phù hợp với sự phát triển biện chứng của mục tiêu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Hai kỷ nguyên trước tạo lập, không ngừng củng cố nền tảng độc lập dân tộc, tạo tiền đề quan trọng nhất để tiến lên xây dựng cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đẩy nhanh quá trình hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm vững chắc và tạo ra những giá trị mới của độc lập dân tộc. Hai kỷ nguyên trước thực hiện mục tiêu hàng đầu, mục tiêu chung của quốc gia, dân tộc là độc lập, tự do, lấy đó làm nền tảng để thực hiện từng bước mục tiêu hạnh phúc của Nhân dân, của con người. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc lấy chăm lo hạnh phúc của con người, của Nhân dân làm mục tiêu số một, trên cơ sở đó làm phong phú hơn, sâu sắc hơn mục tiêu độc lập, tự do.

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là phù hợp với những thời cơ, vận hội mới chưa từng có của thời đại, khi mà toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế không thể đảo ngược; khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp sau tạo cơ hội cho mọi quốc gia thích ứng, tận dụng tốt những thành tựu của nó để bứt phá. Đảng ta đã sớm nhận thức đúng, chủ động, tích cực nắm bắt vận hội này, xem đó là chìa khóa, là đòn bẩy đưa đất nước phát triển tăng tốc, cất cánh. Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là thuận theo xu hướng thời đại.

2. Quan điểm chỉ đạo phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam kiến tạo sự phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội, thực hiện thành công quá trình “đột phá kép”, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, phát triển nhanh, mạnh, bền vững.

Đất nước đứng trước thời cơ, vận hội chưa từng có, đồng thời phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức gay gắt do những yếu kém, khuyết điểm tồn tại từ lâu chưa được khắc phục triệt để và do những mặt tác động không thuận của thời cuộc. Do vậy, về thực chất, kiến tạo kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc là quá trình “đột phá kép”. Một mặt, phải đột phá, đi thẳng vào hiện đại, vào những lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế, vào quản trị quốc gia hiện đại trên nền tảng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, đi tắt, đón đầu, phát triển bứt phá. Mặt khác, phải đột phá trong việc giải quyết dứt điểm, triệt để những điểm nghẽn, những khuyết tật, những khó khăn đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước. Hai quá trình đột phá này cần được tiến hành song song, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau; đi tắt, đón đầu, đột phá, đi thẳng vào hiện đại là cơ bản, có ý nghĩa quyết định; đột phá khắc phục, giải quyết hiệu quả những yếu kém, bất cập là cấp thiết, quan trọng.

Triết lý của quá trình “đột phá kép” là chủ động tạo thời cơ, nhận thức đúng thời cơ, kiên quyết chớp thời cơ, vượt qua nguy cơ, thách thức, chuyển hóa nguy cơ thành thời cơ để giành thắng lợi. Triết lý này Đảng ta đã thực hiện rất thành công trong gần 95 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

3. Định hướng chiến lược phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

3.1. Đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển là khâu mở đường đi vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thành công của hai kỷ nguyên trước đều bắt nguồn từ đổi mới tư duy chiến lược của Đảng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám được mở đường bằng điều chỉnh chiến lược, đặt mục tiêu chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến đặt sau và phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Thành công của công cuộc đổi mới được mở đường bằng sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng: nhận thức lại một cách khoa học hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đột phá lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam diễn ra song hành với kỷ nguyên số, kỷ nguyên đổi mới sáng tạo theo nguyên lý “không có gì là không thể”. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo đang và sẽ làm đảo lộn phương cách suy nghĩ, làm ăn, sinh hoạt của các quốc gia, cộng đồng, con người. Một lần nữa thực tiễn yêu cầu và đòi hỏi chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển, phải có cách tiếp cận mới, khoa học hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội chủ nghĩa; về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng v.v…, phù hợp với kỷ nguyên số; làm cơ sở định hướng đột phá phát triển các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.

Chúng ta kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần không ngừng sáng tạo, đồng thời cởi mở, cầu thị tiếp thu trên tinh thần khoa học những thành tựu tư tưởng, lý luận tiến bộ của nhân loại để tư duy của chúng ta luôn tươi mới, mang hơi thở của thời đại, tiến kịp, tiến cùng thời đại. Đây thật sự là khâu mở đường có ý nghĩa cách mạng trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

3.2. Đột phá mạnh mẽ về thể chế, khai phóng đổi mới sáng tạo và mọi tiềm năng phát triển.

Tư duy phát triển mới của Đảng muốn đi vào cuộc sống phải được thể chế hóa bằng hiến pháp, pháp luật, cơ chế, chính sách, muốn vậy, phải đổi mới căn bản tư duy, phương pháp xây dựng, thực hành thể chế theo tinh thần thượng tôn pháp luật, lấy thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát huy mọi tiềm năng của đất nước phục vụ công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc làm mục đích xuyên suốt. Tổng rà soát, khắc phục những chồng chéo, mâu thuẫn, những kẽ hở về thể chế đang là điểm nghẽn lớn của sự phát triển; loại bỏ những thể chế đã bị thực tiễn vượt qua; bổ sung những thể chế mới phù hợp, bền vững, có giá trị lâu dài để phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước và nước ngoài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khai mở các động lực phát triển; tạo hành lang thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, cuộc cách mạng chuyển đổi số, thu hút, phát huy nhân tài v.v… Vận hành thể chế theo tinh thần phát huy tốt nhất vai trò, tính chủ động, năng động của các chủ thể; gắn bó chặt chẽ và phục vụ thiết thực yêu cầu của thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo tính hợp lý và sức mạnh của thể chế.

3.3. Kiên quyết thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đóng vai trò nòng cốt trong quá trình kiến tạo kỷ nguyên mới. Tư duy chiến lược, thể chế phát triển đất nước được thực hiện trước hết và chủ yếu thông qua tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Vấn đề này đã được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo từ lâu, đặc biệt từ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII và trên thực tế đã được triển khai tích cực, tạo những chuyển biến quan trọng. Tuy nhiên, so với yêu cầu của thực tiễn, nhất là so với yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới, hệ thống tổ chức của hệ thống chính trị nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự cồng kềnh, chồng chéo, thiếu đồng bộ, nhiều tầng nấc, thiếu liên thông, hoạt động thiếu hiệu lực, hiệu quả của hệ thống tổ chức bộ máy đã và đang cản trở, làm chậm sự phát triển của đất nước.

Phải kiên quyết, tích cực tiến hành cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Gọi là cuộc cách mạng vì phải thay đổi cơ bản nhận thức, hiểu đúng bản chất, tính chất của mô hình thiết chế chính trị trong điều kiện một Đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo, cầm quyền; khắc phục bằng được nhận thức xơ cứng về tính song trùng của hệ thống tổ chức; hiểu đúng để thiết kế đúng nguyên lý: khi đã trở thành Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; đồng thời nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ Nhà nước – thị trường – xã hội, Nhà nước không ôm đồm làm thay thị trường, làm thay xã hội mà thực hiện vai trò kiến tạo, vai trò bà đỡ thông qua xây dựng, vận hành nền quản trị quốc gia hiện đại. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội không phải là hệ thống tổ chức hành chính, mà là tổ chức chính trị gắn với Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tự quản của Nhân dân. Từ những nhận thức nền tảng này mà tổng rà soát, tiến hành điều chỉnh đồng bộ, nhất quán, tổng thể mang tính cách mạng từ Trung ương đến cơ sở, hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội tinh gọn, thống nhất, thông suốt, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, từng cơ quan, đơn vị. Trong cuộc cách mạng này, các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải đi tiên phong, gương mẫu, giám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung.

Sắp xếp tổ chức bộ máy không phải vì tổ chức; sắp xếp tổ chức bộ máy thật sự khoa học là nhằm phát huy cao nhất năng lực, tâm huyết, khát vọng cống hiến của đội ngũ cán bộ, công chức. Bố trí công việc đúng sở trường của cán bộ, công chức theo vị trí việc làm; chọn đúng người đứng đầu có tâm, có tầm; có cơ chế, chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ, công chức, nhất là những người thực đức, thực tài; xây dựng môi trường chính trị dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, nhân văn để nuôi dưỡng, phát huy tài năng…- đó chính là cái đích, là linh hồn mạch sống của cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy.

3.4. Đẩy mạnh cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo bước phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất, hình thành phương thức sản xuất số là đòn bẩy đưa đất nước cất cánh, đẩy nhanh tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Để khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, trên thế giới, đưa đất nước vươn mình phát triển, tiến kịp, tiến cùng thời đại, chúng ta không có con đường nào khác là phải triển khai sâu rộng cuộc cách mạng chuyển đổi số; tận dụng, phát huy hiệu quả những thành tựu đột biến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cần tiến hành đồng thời việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, triển khai công nghệ cao, nhất là công nghệ số vào các hoạt động kinh tế – xã hội, ưu tiên những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế gắn với việc phổ cập, đào tạo nguồn nhân lực số, phát triển mạnh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối, đặc biệt là hạ tầng số.

Thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các mô hình, phương thức sản xuất kinh doanh thích ứng với thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển mạnh lực lượng sản xuất số, thực sự đưa khoa học, công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đồng thời điều chỉnh, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với lực lượng sản xuất số, từng bước xác lập phương thức sản xuất số, hoàn thiện hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội chủ nghĩa. Phương thức sản xuất số là một dạng thức phương thức sản xuất thích ứng với kinh tế tri thức phát triển trên nền tảng công nghệ số; là sự minh chứng trình độ phát triển cao, vượt trội của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đây chính là nhân tố quyết định để Việt Nam có thể sớm hoàn thành bước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đi nhanh vào công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội.

3.5. Huy động, sử dụng tối ưu các nguồn lực; phát huy tối đa các động lực, nhất là sức mạnh của toàn dân, toàn quân, của con người Việt Nam tạo thành sức mạnh vô địch phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

Việt Nam có nguồn lực đất đai, tài nguyên, nhân lực và những nguồn lực vô hình kết tinh từ giá trị văn hóa, lịch sử, từ lợi thế địa chính trị, địa kinh tế v.v…, rất phong phú, giàu có, tiềm tàng. Chính những nguồn lực to lớn này đã góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu vĩ đại của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan, khách quan, nguồn lực còn rất tiềm tàng của đất nước chưa được phát huy tốt; nhiều nguồn lực còn bị thất thoát, phí phạm, sử dụng kém hiệu quả; năng lực trí tuệ của con người Việt Nam và lợi thế của đất nước chưa được phát huy đúng tầm. Kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội trong việc giữ gìn, bảo vệ, nuôi dưỡng, sử dụng tối ưu các nguồn lực của đất nước. Nguồn lực đất đai, tài nguyên, tài chính, thời gian, nhân lực, trong nước, ngoài nước v.v…, phải được quý trọng, giữ gìn, bồi đắp, sử dụng hiệu quả nhất để tạo ra của cải vật chất phục vụ công cuộc phát triển của đất nước. Tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát, cần kiệm xây dựng đất nước phải trở thành quốc sách; thành phong trào xã hội rộng lớn, thành ý thức, tình cảm, việc làm tự giác của cả cộng đồng, của mỗi người Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Chống lãng phí gắn với chống tham nhũng, tiêu cực phải trở thành nội dung chủ yếu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; chống lãng phí, cần, kiệm, liêm, chính phải trở thành nhiệm vụ chính trị, thành chuẩn mực đạo đức của các cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần khai mở mạnh mẽ các động lực phát triển – động lực từ lợi ích; từ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; từ giải phóng sức sản xuất xã hội…, trong đó quan trọng nhất là phát huy sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc văn hiến, anh hùng; sức mạnh yêu nước, tự tôn, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường của toàn dân; sức mạnh của lực lượng vũ trang anh hùng, bách chiến, bách thắng; sức mạnh và khát vọng cống hiến của con người Việt Nam cần cù, thông minh, sáng tạo trên nền tảng truyền thống lịch sử, văn hóa Việt Nam đặc sắc. Đây là những chủ thể đóng vai trò trung tâm của công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới; lực lượng đóng vai trò quyết định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trình độ cao, chất lượng cao, có sức cạnh tranh và tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất, giá trị toàn cầu; xây dựng nền quốc phòng, an ninh hiện đại có năng lực bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Chăm lo bồi dưỡng sức dân; chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện; lấy ấm no, hạnh phúc của Nhân dân, của con người làm mục tiêu hàng đầu – đó chính là thượng sách kiến tạo kỷ nguyên mới.

3.6. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tiến kịp, tiến cùng thời đại, phát huy sức mạnh mềm Việt Nam, nâng tầm đối ngoại, ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Gắn vận mệnh của quốc gia, dân tộc với vận mệnh chung của nhân loại. Nắm bắt, khai thác những xu hướng tiến bộ, những thành tựu quản trị tiên tiến, những công nghệ hiện đại của thế giới làm tăng sức mạnh nội sinh của dân tộc. Phát huy lợi thế của nước đi sau, đi tắt, đón đầu, thực hiện hiệu quả những tiêu chí của quốc gia phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, tiến kịp, tiến cùng thời đại, tiến lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chính sách ngoại giao hòa bình, chính nghĩa, gia tăng sức mạnh mềm Việt Nam trong hệ giá trị toàn cầu. Nâng tầm ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết, đồng thời tôn trọng lợi ích của các quốc gia trong cộng đồng khu vực, quốc tế theo nguyên tắc hợp tác bình đẳng, tôn trọng nhau, cùng có lợi trên cơ sở luật pháp quốc tế. Mở rộng, đưa các quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả; chủ động, tích cực tham gia xây dựng các định chế quốc tế và tham gia giải quyết các vấn đề quan trọng tầm khu vực, quốc tế. Thực hiện thành công nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, lấy độc lập, tự chủ và sức mạnh nội sinh của đất nước, dân tộc làm nền tảng kết hợp với tận dụng những nhân tố quốc tế thuận lợi để chủ động ứng phó thành công với những biến động, rủi ro bất định của tình hình thế giới, khu vực; nâng vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam lên tầm mức mới tương xứng với thế và lực của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình.

3.7. Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện; đổi mới căn bản phương thức lãnh đạo, quản lý, hoạt động là nhân tố hàng đầu quyết định thành công của công cuộc kiến tạo kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Là người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc kiến tạo kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng gánh trên vai sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trọng trách rất nặng nề. Lịch sử đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền; xây dựng Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh, thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, của thời đại, xứng đáng là người cầm lái vĩ đại đưa dân tộc đến phồn vinh, hạnh phúc. Nhân dân đặt niềm tin và kỳ vọng Đảng và hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện: bản lĩnh về chính trị, thống nhất về tư tưởng, cao về văn hóa, đẹp về đạo đức, khoa học về tổ chức, tiêu biểu về cán bộ. Nhân dân mong muốn và đòi hỏi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược, thực sự có đức có tài, biết lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, biết dĩ công vi thượng, có năng lực thiết kế, truyền cảm hứng và làm gương để Nhân dân noi theo trên cuộc hành trình kiến tạo kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Đổi mới tư duy phát triển, thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn rất chặt và tiến hành đồng thời với đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý, quản trị, hoạt động của Đảng, hệ thống chính trị.

Đảng lãnh đạo đất nước, hệ thống chính trị, xã hội về mọi mặt, nhưng không bao biện, không dàn trải, sa vào chỉ đạo những công việc cụ thể. Nâng tầm bao quát những vấn đề chiến lược, trọng yếu về xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và chất lượng định hướng những vấn đề lớn trong xây dựng, ban hành nghị quyết; tập trung nhiều hơn, quyết liệt hơn cho việc lãnh đạo, kiểm tra việc thực hiện dứt điểm, hiệu quả các đường lối, chủ trương của Đảng, kiên quyết không để các điểm nghẽn, những khuyết tật tồn đọng kéo dài; chú trọng nhiều hơn vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Mở rộng biên độ và đề cao quyền, trách nhiệm, tính năng động, chủ động của Nhà nước trong việc quyết định, điều hành các công việc liên quan đến quản lý, quản trị quốc gia. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của cấp ủy viên các cấp; giảm bớt hội họp, tăng cường chỉ đạo thực tiễn; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, áp dụng công nghệ thông tin, công nghệ số để hiện đại hóa phương thức lãnh đạo của Đảng.

Đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý của Nhà nước; xây dựng và vận hành hiệu quả nền quản trị quốc gia hiện đại hướng vào phát huy tối ưu vai trò của các chủ thể và tối ưu hóa việc phân bổ, sử dụng các nguồn lực phục vụ phát triển. Đẩy mạnh xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số; tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; phân cấp, phân quyền mạnh cho địa phương, cơ sở, xóa bỏ mọi sự ràng buộc, chi phối cơ học về hành chính, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, pháp quyền.

Đổi mới căn bản phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội. Hướng mạnh về cơ sở, phát huy tối đa vai trò chủ thể, trung tâm của nhân dân; thật sự là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, tạo môi trường để hiện thực hóa cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Hướng dẫn xây dựng, nhân rộng các mô hình nhân dân tự quản ở cơ sở theo phương châm dựa vào dân, lấy tài dân, sức dân để lo cho dân.

Kiến tạo kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc là sự nghiệp vĩ đại bao hàm rất nhiều công việc lớn lao, phức tạp, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội./.

Thượng tá, TS. Nguyễn Thanh Minh - Phó Giám đốc TT Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ Cảnh sát biển

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

https://www.brusselsmuseums.be/

https://www.lazadasolutions.com/

https://may.edu.vn/

https://agungbatin.mesuji-desa.id/batin/

https://paperbags.com.ar/

https://www.watawasushi.com/

https://www.neinver.com/

https://www.caxangagolf.com.br/

https://famousfidorescue.org/

https://iass2025.unam.mx/index.php/home/