Thái Bình bứt phá từ tỉnh thuần nông đến nỗ lực phát triển về công nghiệp
(Nghiên cứu giai đoạn 2010 – 2020)
1. Đặt vấn đề
Thái Bình là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời và được xem là “vựa lúa” của miền Bắc. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lấy công nghiệp và dịch vụ làm động lực phát triển, đồng thời duy trì nông nghiệp là nền tảng ổn định. Việc thành lập Khu kinh tế Thái Bình cùng các khu, cụm công nghiệp trọng điểm đã mở ra không gian phát triển mới, tạo đà bứt phá trong thu hút đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nghiên cứu quá trình này có ý nghĩa thiết thực trong việc đánh giá hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, rút ra bài học kinh nghiệm cho giai đoạn phát triển tiếp theo.

2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Thái Bình là tỉnh đồng bằng duy nhất của Việt Nam không có đồi núi. Đồng đất Thái Bình được hình thành nhờ sự bồi tụ phù sa của sông Hồng, sông Thái Bình và công cuộc quai đê lấn biển, khai khẩn đất hoang của nhiều thế hệ cư dân. Do đó, nông nghiệp vốn là ngành kinh tế chủ đạo của tỉnh suốt nhiều thế kỷ.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã tích cực đổi mới, từng bước đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, cải thiện đời sống nhân dân mà còn tạo tiền đề để Thái Bình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và cả nước. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự đúng đắn, kịp thời của sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong việc cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng vào điều kiện thực tiễn địa phương.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ 2010–2015, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVIII đã xác định rõ định hướng chiến lược: “Tập trung phát triển công nghiệp – xây dựng, từng bước đưa Thái Bình trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.” Đây được xem là bước khởi đầu quan trọng, thể hiện tầm nhìn đổi mới mạnh mẽ trong tư duy phát triển kinh tế của tỉnh. Đến Đại hội XIX (2015–2020), định hướng tiếp tục được nhấn mạnh theo hướng “phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đồng thời tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng giá trị gia tăng và bền vững.”
Một dấu mốc đặc biệt là năm 2014, khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 108/QĐ-TTg thành lập Khu kinh tế Thái Bình với quy mô trên 30.000 ha. Việc hình thành khu kinh tế này đã mở ra dư địa phát triển mới, tạo động lực mạnh mẽ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh, vững chắc hơn.
Bước vào giai đoạn 2021–2025, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XX tiếp tục khẳng định quyết tâm: “Phát triển nhanh và bền vững trên nền tảng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; xây dựng Thái Bình trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực đồng bằng sông Hồng.” Đảng bộ tỉnh đề ra 5 nhiệm vụ trọng tâm và 3 khâu đột phá chiến lược, trong đó nhấn mạnh: (1) phát triển Khu kinh tế Thái Bình trở thành trung tâm động lực tăng trưởng mới; (2) phát triển mạnh công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng sạch, công nghiệp hỗ trợ; (3) tái cơ cấu nông nghiệp gắn với chuyển đổi số và kinh tế xanh; (4) phát triển dịch vụ, thương mại, du lịch chất lượng cao; (5) đầu tư hạ tầng giao thông chiến lược, đô thị hóa đồng bộ.
Những chủ trương đó đã và đang mở ra thời kỳ phát triển mới cho Thái Bình – giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ hướng tới nền kinh tế hiện đại, hội nhập, bền vững, khẳng định vai trò và vị thế ngày càng rõ nét của tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước.
2.2. Sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Từng bước giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GRDP
Trước đây, sản xuất nông nghiệp của Thái Bình dựa vào sức người là chính, hiệu quả thấp, thì nay đã có bươc tiến dài với nhiều điểm sáng, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng, đồng thời, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ vào các khâu sản xuất. Từ chỗ sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, tự cung tự cấp thì nay đã hình thành và phát triển nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao theo hình thức liên kết chuỗi giá trị bền vững, giúp nâng cao giá trị sản phẩm. Trong đó, tỉnh chú trọng phát triển nền nông nghiệp toàn diện, bền vững theo hướng hiện đại; đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hữu cơ gắn với ứng dụng công nghệ sinh học; tập trung tạo ra các sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Từ năm 2021, nông nghiệp tiếp tục hướng mạnh sang sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị.
Lĩnh vực chăn nuôi của tỉnh phát triển mạnh theo hướng gia trại và trang trại quy mô lớn, áp dụng phương thức công nghiệp và công nghệ hiện đại. Đặc biệt, mô hình chăn nuôi trang trại công nghiệp và bán công nghiệp đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng, trở thành động lực quan trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Hoạt động nuôi trồng thủy sản ngày càng đa dạng về phương thức, hình thức và đối tượng nuôi có giá trị kinh tế. Tỉnh đã bước đầu hình thành các chuỗi liên kết sản xuất trong lĩnh vực này, tập trung chủ yếu vào việc cung ứng con giống, thức ăn, hóa chất, chế phẩm sinh học, máy móc thiết bị cũng như hỗ trợ kỹ thuật cho người dân, qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất và giá trị sản phẩm thủy sản.
Nếu như năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 27,49% trong cơ cấu GRDP (không tính thuế sản phẩm), thì đến năm 2021 tỷ trọng này giảm xuống còn 24,93%, năm 2022 tiếp tục giảm còn 22,67% và đến 2024 chỉ còn 19,7%. Vì thế, dù tỷ trọng nông, lâm, thủy sản giảm, diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm nhưng năng suất các loại cây trồng vẫn đươc duy trì tốt, chất lượng sản phẩm lại tăng lên, giá trị trên đơn vị diện tích tăng cao. Tính đến năm 2025, toàn tỉnh đã có 261 sản phẩm OCOP đạt hạng 3 sao và 4 sao. Giá trị kinh tế của các sản phẩm này tăng từ 20% trở lên sau khi được công nhận OCOP. Cùng với đó, nhiều mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã xuất hiện và phát triển, tiêu biểu như trồng dưa lưới, nho sữa, hoa tulip…, góp phần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông nghiệp Thái Bình. Cả tỉnh Thái Bình đã có trên 10.000 ha diện tích sản xuất theo mô hình liên kết; có 270 hợp tác xã ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với 20 doanh nghiệp; gần 1.600 trang trại chăn nuôi đang hoạt động, trong đó khoảng 20% số trang trại đạt mức thu nhập từ 2 tỷ đồng/năm trở lên. Thái Bình tiếp tục xem trọng và dành nguồn lực đầu tư để giữ vững vai trò trụ cột của nông nghiệp trong phát triển kinh tế lâu dài của tỉnh nhà, đồng thời đóng góp quan trọng vào mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ
Công nghiệp Thái Bình đã có bước bứt phá ngoạn mục và giữ vai trò là động lực dẫn dắt cho tăng trưởng kinh tế địa phương. Thái Bình đã mạnh dạn dành quỹ đất lớn quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các trung tâm thương mại lớn như khu công nghiệp Liên Hà Thái, Khu công nghiệp Tiền Hải, Khu công nghiệp VSIP Thái Bình, Khu công nghiệp Gia Lễ, Khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh,….
Tỉnh đã huy động tối đa các nguồn lực để xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, với nhiều cây cầu, tuyến đường lớn kết nối các tỉnh lân cận, hình thành liên kết vùng chặt chẽ, từng bước phá thế “ốc đảo”. Song song, hạ tầng kỹ thuật trong các khu, cụm công nghiệp được đầu tư hoàn thiện, mặt bằng sạch được chuẩn bị sẵn sàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đến với Thái Bình. Cùng với đó, Tỉnh khuyến khích và ưu tiên thu hút các dự án đầu tư phát triển những ngành có lợi thế và tiềm năng tạo đột phá như: năng lượng, cơ khí, chế biến – chế tạo, công nghiệp công nghệ cao, điện – điện tử, sản xuất linh kiện, lắp ráp ô tô và công nghiệp hỗ trợ phục vụ nông nghiệp. Công nghiệp năng lượng và năng lượng tái tạo, nhất là điện khí hóa lỏng và điện gió ven biển, bước đầu được chú trọng đầu tư.
Kết quả, tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp – xây dựng bình quân đạt trên 10%/năm. Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng từ mức 33% GRDP năm 2011 đã tăng lên hơn 45% năm 2020 và tiếp tục duy trì ở mức 45% GRDP năm 2023. Trong 5 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của tỉnh Thái Bình tăng 13,48% so với cùng kỳ năm 2024 – mức tăng cao, phản ánh sự phục hồi và phát triển rõ nét của khu vực công nghiệp. Cụ thể, ngành khai khoáng tăng 7,32%; công nghiệp chế biến, chế tạo – lĩnh vực chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu công nghiệp – tăng mạnh 18,91%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,81%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,02% so với cùng kỳ. Giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh ước đạt 42.557 tỷ đồng, tăng 17,06% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến – chế tạo tiếp tục giữ vai trò động lực, tăng 20,31%; cung cấp nước và xử lý chất thải tăng 17,22%; khai thác mỏ tăng 4,82%; sản xuất, phân phối điện tăng 0,84%.
Lĩnh vực thương mại và dịch vụ của tỉnh Thái Bình trong những năm gần đây đã có bước phát triển vượt bậc, khẳng định vai trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng kinh tế – xã hội của tỉnh. Hoạt động thương mại, dịch vụ ngày càng sôi động với sự hình thành và phát triển của các trung tâm thương mại hiện đại như GO!, Vincom Plaza, cùng hệ thống 218 chợ, 15 siêu thị, hàng trăm cửa hàng tiện lợi và siêu thị mini phủ khắp các địa bàn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và trao đổi hàng hóa của nhân dân. Cơ sở hạ tầng thương mại được đầu tư theo hướng văn minh, hiện đại, từng bước gắn kết với mạng lưới tiêu thụ trong và ngoài tỉnh. Tỉnh Thái Bình tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả hoạt động của sàn thương mại điện tử và phần mềm quản lý xuất nhập khẩu, thường xuyên cập nhật số liệu, thông tin sản phẩm, hàng hóa của địa phương nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ. Các cơ quan chức năng đã tổ chức nhiều đợt khảo sát thực tế tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh các mặt hàng thực phẩm chức năng, hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm, qua đó kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả cũng được đẩy mạnh, góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của doanh nghiệp, người dân, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định và minh bạch trên địa bàn tỉnh. Chính vì thế, trong 5 tháng đầu năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh Thái Bình đạt 37.850 tỷ đồng, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm 2024, cho thấy khu vực thương mại – dịch vụ của tỉnh giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kết quả trên cho thấy, công nghiệp Thái Bình tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thể hiện sự năng động trong thu hút đầu tư, mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ, đồng thời minh chứng cho tính đúng đắn trong chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương trong hơn 15 năm kể từ năm 2011. Đồng thời, thể hiện sâu sắc đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, khẳng định sự năng động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thái Bình. Thành tựu đó không chỉ tạo nền tảng vững chắc cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn gắn kết hài hòa giữa phát triển đô thị và nông thôn, giữa kinh tế ven biển và nội đồng, mở ra hướng đi bền vững, đồng bộ. Bên cạnh đó, tỉnh đã thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức, ứng dụng công nghệ cao, từng bước hội nhập sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Quan trọng hơn cả, những kết quả ấy đã góp phần tạo công ăn việc làm cho nhân dân, nâng cao đời sống nhân dân, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển Thái Bình ngày càng giàu đẹp, văn minh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, vẫn còn những hạn chế cần khắc phục: tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao chưa tương xứng với tiềm năng; năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp địa phương còn thấp; công nghiệp phụ trợ phát triển chậm; dịch vụ chất lượng cao, du lịch, logistics chưa thật sự bứt phá. Đây là những “nút thắt” mà tỉnh Hưng Yên “mới” cần tập trung tháo gỡ trong giai đoạn tới, nhằm tạo bước chuyển mạnh mẽ hơn nữa trong cơ cấu kinh tế, hiện thực hóa khát vọng trở thành tỉnh công nghiệp phát triển, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước.
2.3. Một số kinh nghiệm
Từ thực tiễn lãnh đạo và tổ chức thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu như sau:
Thứ nhất, kiên định đường lối đổi mới của Đảng, vận dụng linh hoạt và sáng tạo các chủ trương, chính sách vào điều kiện thực tiễn của địa phương. Thái Bình đã xác định đúng hướng đi khi lấy phát triển công nghiệp – dịch vụ làm động lực, còn nông nghiệp là nền tảng ổn định, bảo đảm sự phát triển hài hòa, vững chắc giữa các khu vực kinh tế.
Thứ hai, phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ tỉnh, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, coi trọng tính đồng bộ, thống nhất giữa chủ trương – hành động – hiệu quả. Đây là yếu tố quyết định tạo nên sự chuyển biến rõ nét trong cơ cấu kinh tế và diện mạo phát triển của tỉnh.
Thứ ba, chú trọng quy hoạch và thu hút đầu tư chiến lược, gắn phát triển với hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ, đặc biệt là Khu kinh tế Thái Bình cùng các khu, cụm công nghiệp. Sự chủ động trong quy hoạch và thu hút nguồn lực đã mở ra không gian phát triển mới, tạo đà bứt phá cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Thứ tư, tăng cường phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, coi đây là yếu tố then chốt của tăng trưởng bền vững. Công tác đào tạo được gắn với nhu cầu thị trường lao động và định hướng phát triển các ngành mũi nhọn, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế địa phương.
Thứ năm, bảo đảm phát triển bền vững, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, gìn giữ bản sắc văn hóa, chăm lo an sinh xã hội và củng cố quốc phòng – an ninh. Đây không chỉ là mục tiêu phát triển trước mắt mà còn là nền tảng vững chắc cho sự ổn định và thịnh vượng lâu dài của địa phương.
Với nền tảng vững chắc đã được xây dựng và tầm nhìn chiến lược hướng tới một tỉnh công nghiệp – dịch vụ hiện đại, văn minh, tin tưởng rằng Thái Bình, sau sáp nhập là tỉnh Hưng Yên, sẽ trở thành động lực phát triển kinh tế quan trọng của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước.
3. Kết luận
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thái Bình trong hơn một thập kỷ (2010 – 2020) đã cho thấy, từ một tỉnh thuần nông, Thái Bình đã từng bước khẳng định vị thế là trung tâm công nghiệp mới của vùng đồng bằng sông Hồng, với cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp. Thành tựu đạt được không chỉ tạo nền tảng cho tăng trưởng nhanh, bền vững, mà còn góp phần nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy đô thị hóa và hội nhập kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, để duy trì đà phát triển, Thái Bình cần tiếp tục tập trung vào nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, và chuyển đổi số toàn diện…