Vấn đề văn hóa tâm linh trong củng cố quốc phòng ở đặc khu Trường Sa
Văn hoá tâm linh là một thuật ngữ được dùng để chỉ một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của người Việt Nam lấy đối tượng là sự bày tỏ tình cảm linh thiêng, niềm tin linh thiêng, sự tri ân của những người đang sống đối với những người thân đã mất, đối với những vị anh hùng dân tộc, những liệt sĩ được tôn làm Thánh, làm Thần, làm Thành hoàng… diễn ra trong một không gian thiêng và thời gian thiêng nhất định. Đến nay, tuy chưa có định nghĩa đầy đủ, thống nhất về văn hóa tâm linh, nhưng cơ bản các học giả, nhà khoa học đều cho rằng, văn hóa tâm linh là một dạng thức đặc biệt của đời sống vătn hóa tinh thần, do con người sáng tạo ra trong quá trình sản xuất vật chất, bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội loài người. Tất cả những biểu hiện liên quan đến đời sống tâm linh con người sẽ tạo nên văn hóa tâm linh. Giá trị và ý nghĩa to lớn mà văn hóa tâm linh mang lại cho con người chính là tinh thần và sự linh thiêng.
Văn hóa tâm linh của người Việt vô cùng phong phú, đa dạng và được biểu hiện trên nhiều bình diện (gia đình, dòng họ, cộng đồng – làng xã và ở cả phạm vi quốc gia – nhà nước). Ý nghĩa tích cực của các hoạt động văn hoá tâm linh được người Việt khai thác rất có hiệu quả vào việc giáo dục các thế hệ con cháu, cố kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc, truyền thống. Hoạt động văn hoá tâm linh đã trở thành một nhu cầu văn hoá lành mạnh, đầy tính nhân văn của người Việt Nam. Đơn cử như, tục thờ cúng tổ tiên, nhớ ơn ông bà là dạng thức tín ngưỡng đặc biệt củaở mỗi gia đình người Việt Nam gồm những nghi thức thể hiện tấm lòng thành kính biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã sinh thành gây dựng cuộc sống và phù hộ cho con cháu. Ở phạm vi cộng đồng là tục thờ cúng thành hoàng, các vị thần, các vị tổ sư, các vị anh hùng đã có công với nước, các danh nhân văn hóa,… Ở phạm vi quốc gia, tục thờ cúng tổ tiên trải qua nhiều thế hệ phát triển thành nghi lễ thiêng liêng thờ Quốc tổ Hùng Vương, một tín ngưỡng có sức mạnh gắn kết dân tộc thành một khối thống nhất. Thông qua những hoạt động văn hoá tâm linh đó, giúp mỗi con người tự điều chỉnh về thái độ, hành vị, tu tâm, tích đức để trở nên tốt đẹp hơn, đoàn kết hơn, hướng thiện hơn, bớt đi cái ác, cái xấu trong lòng. Về phương diện đạo lý, tục thờ cúng tổ tiên góp phần xây dựng nên truyền thống uống nước nhớ nguồn, một giá trị văn hóa cao đẹp.
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và các giá trị văn hóa truyền thống, trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo đến việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, trong đó có các giá trị văn hoá tâm linh. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, khóa IX của Đảng ta khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Điều 3, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016) quy định: “1. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân”. Qua đó cho thấy, từ đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng cho đến các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đều công nhận, tôn trọng và bảo đảm cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đồng hành cùng dân tộc; đồng thời, thừa nhận, bảo vệ giá trị văn hóa nói chung, văn hóa tâm linh nói riêng tồn tại và phát triển trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thấu triệt tinh thần đó, những năm qua, được sự quan tâm cùng chung tay, góp sức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân cả nước, cũng như Kiều bào ta ở nước ngoài, đặc biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân,… đã đầu tư xây dựng, trùng tu, bảo tồn, tôn tạo nhiều công trình văn hóa có tính lưỡng dụng cao, nhằm thiết thực góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho quân dân trên các tuyến đảo tiền tiêu của Tổ quốc; trong đó, có Đặc khu Trường Sa. Đáng chú ý là các công trình mang đậm bản sắc văn hóa tâm linh của Người Việt trên Quần đảo Trường Sa được đầu tư xây dựng, trùng tu, bảo tồn, tôn tạo, như: Tượng đài Hưng đạo Đại vương Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn, Đền thờ Thái úy Việt Quốc công Lý Thường Kiệt, Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ, Công viên Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hệ thống chùa chiền trên các đảo,… Các công trình này vừa tạo không gian – địa điểm sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống, đáp ứng kịp thời nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của quân và dân sở tại, vừa góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, bảo vệ những giá trị chân – thiện – mỹ, đặc biệt là góp phần củng cố nền tảng chính trị – tinh thần, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc chủ quyền từng tấc đảo, sải biển thiêng liêng của Tổ quốc.
Các công trình văn hóa nói chung, văn hóa tâm linh nói riêng, đặc biệt là hệ thống các chùa được trùng tu, tôn tạo, đầu tư xây dựng ở Đặc khu Trường Sa thời gian qua, vừa góp phần thu hẹp khoảng cách giữa đất liền với các tuyến đảo tiền tiêu của Tổ quốc, mở ra những không gian, địa điểm thuận lợi để tổ chức các hoạt động văn hóa, đáp ứng kịp thời nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, văn hóa tâm linh của quân và dân sở tại, vừa tạo điều kiện thuận lợi trong tiến hành công tác tư tưởng, góp phần xây dựng nhân tố chính trị tinh thần, xây dựng thế trận liên hoàn bờ – biển – đảo vững chắc, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Chỉ xét riêng về sự hiện diện của hệ thống các chùa ở Đặc khu Trường Sa không những trở thành “điểm tựa tâm linh” giúp quân dân sở tại thêm yên tâm phấn khởi, kiên cường bám trụ nơi đầu sóng, ngọn gió, mà còn được xem là cột mốc chủ quyền thể hiện tâm nguyện về cuộc sống yêu hòa bình, hướng thiện, bình yên. Trong tâm khảm người dân đất Việt, ở đâu có người dân sinh sống thì ở đó có cuộc sống tâm linh hướng thiện, mà chùa là biểu tượng của cuộc sống tâm linh hướng thiện ấy. Sự hiện diện đó, không những góp phần củng cố, tăng cường cơ sở pháp lý – khẳng định chủ quyền có tính lịch sử bền vững của dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi trong đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, mà còn có giá trị, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giáo dục truyền thống, hướng về cội nguồn, khơi dậy khát vọng cống hiến, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân sinh sống ở đây và cả những ngư dân ra khơi khai thác, đánh bắt hải sản trên vùng biển này. Những câu kinh, tiếng kệ, đặc biệt là tiếng chuông chùa ngân vang giữa sóng nước trùng khơi – nơi “đầu sóng, ngọn gió”, vừa thiết thực góp phần hun đúc, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, thức tỉnh lương tri con người hướng về nguồn cội, vừa tiếp thêm sức sống mãnh liệt, ý chí, nghị lực phi thường, giúp quân – dân sở tại vượt qua mọi khó khăn, thách thức, gian khổ, hiểm nguy, tạo điều kiện, tiền đề để họ thêm vững tay lái, chắc tay súng, cùng quân dân cả nước bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển.
Tuy nhiên, văn hoá tâm linh và các hoạt động văn hoá tâm linh sẽ không đạt được mục đích cao đẹp và ý nghĩa thiêng liêng của nó nếu quá lạm dụng, đề cao quá mức, dẫn tới u mê, mê muội, lẫn lộn giữa thật – giả, đúng -sai, thậm chí là mê tín, dị đoan hoặc bị các thế lực thù địch lợi dụng để tiến hành các hoạt động chống phá hòng gây nhiễu loạn đời sống tinh thần, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và làm suy giảm khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của đất nước nói chung, quân – dân Đặc khu Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa nói riêng. Để khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực, mặt trái của văn hóa tâm linh, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi phải “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”[1]; đồng thời, phải chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi lợi dụng văn hóa tâm linh với dụng ý xấu. “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”[2]. Theo đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta, đặc biệt là cơ quan chức năng cần phải có cách nhìn biện chứng, khách quan, khoa học để có cách ứng xử hợp lý, phát huy được mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với đời sống cộng đồng. Cùng với việc nghiên cứu, phát huy giá trị văn hóa tâm linh, coi đó là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, là sức mạnh mềm của quốc gia đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững trong kỷ nguyên vươn mình, hội nhập và phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu, cần phải đặc biệt quan tâm làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và bà con ngư dân trên địa bàn đóng quân nhằm nâng cao nhận thức loại bỏ hủ tục, chống khuynh hướng lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng cổ súy mê tín, dị đoan, buôn bán thần thánh, khiến văn hóa tâm linh mất đi vẻ đẹp nhân văn và thánh thiện.
Chúng ta khuyến khích các hoạt động văn hoá tâm linh mang ý nghĩa tích cực, có ích cho việc xây dựng và phát triển các giá trị văn hoá tinh thần, đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, có tác dụng thiết thực góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, đặc biệt là “thế trận lòng dân”, thế phòng thủ liên hoàn bờ – biển – đảo trên phạm vi cả nước, cũng như ở Đặc khu Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa thêm vững chắc; đồng thời kiên quyết phản đối các hành vi xuyên tạc, lạm dụng, tuyệt đối hóa giá trị văn hoá tâm linh. Đơn cử như việc thờ cúng Bác Hồ, thờ cúng các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc tại các Chùa trên quần đảo Trường Sa cũng như ở các hộ dân sinh sống trên quần đảo này là nét đẹp văn hóa cần giữ vững và phát huy. Tuy nhiên, cần phải hết sức cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, phản bác các hành vi, hoạt động lợi dụng việc làm đó để truyền bá các đạo lạ (“Đạo Hoàng Thiên Long”, “Tâm linh Hồ Chí Minh”, “đạo Bác Hồ”, “đạo Bà Điền” và “Ngọc Phật Hồ Chí Minh” là những “hiện tượng tôn giáo mới”) chưa được Nhà nước ta công nhận là tổ chức tôn giáo, nhưng đã và đang có những hoạt động cổ súy cho các hành vi mê tín, phản khoa học, như: Ốm đau không cần thuốc, chỉ cần uống nước “thánh”; chữa bệnh bằng “Tâm linh Hồ Chí Minh”, chỉ cần đọc “kinh Bác Hồ” là có thể chữa được bách bệnh – kể cả bệnh nan y(!). Vì vậy, chúng ta phải hết sức cảnh giác, nhận diện đúng bản chất, tránh nhầm lẫn với các hoạt động tâm linh mang ý nghĩa tích cực như ở Đặc khu Trường Sa đã và đang thực hiện mang lại hiệu quả thiết thực cho quân và dân sở tại.
Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đều công nhận và bảo đảm hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, thừa nhận và tạo điều kiện cho văn hóa tâm linh hoạt động và phát triển. Tôn trọng đời sống tâm linh của người dân là cần thiết nhưng điều đó không có nghĩa là chấp nhận việc “buôn thần bán thánh” trong một xã hội văn minh. Không được nhầm lẫn giữa việc thờ cúng tổ tiên với các hành vi mê tín, phản khoa học, thậm chí cuồng tín đến mức chỉ chăm chăm trông chờ vào việc đi lễ bái, cầu xin Thánh, Thần, Phật ban lộc, ban phép màu,… mà quên đi nghĩa vụ, trách nhiệm, cũng như sự nỗ lực, cố gắng của bản thân trong học tập, công tác, tu dưỡng, rèn luyện, lao động sản xuất, huấn luyện, SSCĐ và chiến đấu. Theo đó, việc thờ cúng chỉ nên giữ ở mức giá trị tinh thần đúng mực, giúp cho tâm hồn con người thanh thản và thêm yên tâm, phấn khởi trong thực hiện nhiệm vụ; trên cơ sở đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, công tác. Nếu tuyệt đối hóa, chỉ trông chờ vào việc cúng bái, lấy đó làm cứu cánh – thay thế cho việc học tập, tu dưỡng, rèn luyện,… sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của mỗi cơ quan, đơn vị, tập thể và cá nhân. Sinh thời, Các Mác từng nói rằng: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”; câu nói đó có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn góp phần chỉ đạo, định hướng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị của văn hóa tâm linh. Bởi lẽ, thuốc phiện, nếu được sử dụng hợp lý, đúng lúc, đúng chỗ, luôn là một liều thuốc quý; nhưng nếu sử dụng thái quá, lại trở thành độc dược đối với con người.
Chúng ta biết rằng, của cải, vật chất của mỗi cá nhân, gia đình, hay rộng hơn là của toàn xã hội có được đều là thành quả của quá trình lao động sản xuất mà có chứ hoàn toàn không phải là do Thánh, Thần,… ban lộc thông qua lễ lạt, cầu xin. Theo đó, cần tránh hành vi, tình trạng cuồng tín/lợi dụng văn hóa tâm linh để trục lợi hoặc u mê, mê muội dẫn tới những suy nghĩ, hành động làm gia tăng tình trạng mê tín dị đoan, lối suy nghĩ và cách hành xử tiêu cực, chạy theo các giá trị vật chất hiện sinh, cách ứng xử gian dối, phản khoa học, coi thường lao động, làm tổn hại tới bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân, gia đình, xã hội, đặc biệt là ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương, pháp luật,…
Chúng ta không được phép nhầm lẫn việc cúng mỗi khi tàu thuyền rời bến ra khơi (để cầu cho mưa thuận, gó hòa, thuận buồm, xuôi gió) chứ không phải trông chờ, tuyệt đối hóa – chỉ lo cúng bái dẫn tới sao nhãng, bỏ quên chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, chiến sĩ trên từng cương vị công tác, ở mỗi vị trí chiến đấu,… Tương tự như vậy, việc tổ chức Lễ dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc là hoạt động tâm linh – nét đẹp văn hóa cần phát huy chứ hoàn toàn không phải là hành vi hay hoạt động mê tín. Thông qua các hoạt động tâm linh trong Lễ tưởng niệm là dịp để mỗi chúng ta, đặc biệt là các thành viên trong Đoàn công tác bày tỏ lòng thành kính tri ân, tưởng nhớ các Anh hùng, Liệt sĩ đã anh dũng hy sinh hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc; đồng thời, để giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của những người đang sống, đặc biệt là thế hệ trẻ xác định rõ ý chí quyết tâm học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nguyện tiếp bước cha anh, sẵn sàng chiến đấu, chấp nhận hy sinh để bảo vệ vững chắc từng tấc đảo, sải biển thiêng liêng của Tổ quốc.
Văn hoá tâm linh là một bộ phận của văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, đã tồn tại cùng với quá trình hình thành, phát triển của văn hoá dân tộc, góp phần tạo ra bản sắc độc đáo của văn hoá dân tộc Việt Nam, có tích cực nhiều mặt không thể phủ nhận trên các bình diện. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, văn hoá tâm linh đã và đang bị lợi dụng theo hướng thương mại hóa, tuyệt đối hoá đề cao quá mức – trở thành mê tín, dị đoan có tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến củng cố quốc phòng, an ninh; thậm chí, các thế lực thù địch còn lợi dụng để tiến hành các hoạt động chống phá, cổ súy hành vi mê tín dị đoan, phản khoa học, truyền bá đạo lạ. Để phát huy hơn nữa những tác động của văn hóa tâm linh và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực của nó đến củng cố quốc phòng ở Đặc khu Trường Sa đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, các tầng lớp nhân dân trên phạm vi cả nước cũng như ở Đặc khu Trường Sa phải luôn đề cao cảnh giác, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, gương mẫu chấp hành và làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thực hiện tốt Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời,phê phán các hiện tượng mê tín dị đoan, lợi dụng văn hóa tâm linh với dụng ý xấu.
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 171
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 141